Một số kết quả nghiên cứu hiệu ứng từ nhiệt trong những năm gần đây
Cho
đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về MCE trên các hệ
vật liệu khác nhau được các tác giả công bố. Tuy nhiên trong khuân khổ
luận văn chúng tôi sẽ trình bày các kết quả về hiệu ứng từ nhiệt
trên các họ vật liệu được tập trung nghiên cứu nhiều trong những năm
gần đây bao gồm: các hợp chất liên kim loại (kim loại chuyển tiếp -
đất hiếm như: Gd, Gd5(Ge,Si)4 ... ; vật liệu gốm perovskite;
các hợp kim VĐH nền Fe.
1.
Hợp kim liên kim loại (intermetallic)
Gd
là chất được sử dụng đầu tiên, có biến thiên |ΔSm|max=4,2
J/kg.K trong khoảng biến thiên từ trường H= 15 kOe và TC=297K. (Cần nói thêm là biến thiên
entropy từ cực đại xảy ra tại TC, giá trị lớn hơn hoặc bằng 2 J/kg.K
được gọi là "khổng lồ"). Nhiệt dung khá nhỏ (do có bản chất kim
loại). Tuy nhiên, các thông số này chưa thực sự khả thi trong việc ứng
dụng, ngoài ra Gd nguyên chất có độ bền đối với môi trường rất kém
và giá thành đắt. Chính vì vậy mà các nhà khoa học đã không ngừng
nghiên cứu các hợp kim của nó với mong muốn tìm ra các vật liệu có
tính chất tốt hơn. Điển hình vào năm 1997, GMCE được tìm thấy đầu tiên
trong các hợp kim Gd-Si-Ge (GSG) bởi Pecharsky và Gschneider tại phòng thí
nghiệm AMES, và DSM và DTad của các hợp kim GSG lớn hơn các hợp kim
của Gd từ 70% - 80%. Tiêu biểu là
mẫu Gd5Ge2Si2 có TC = 295 K, |ΔSm|max=
5 J/kg.K với H= 20 kOe. Xét ảnh hưởng của các nguyên tố thay thế
lên hệ hợp kim Gd-Si-Ge [11].
Yucel đã
nghiên cứu ảnh hưởng của sự pha trộn hợp chất Gd4(Si2-zGe2-zR2z)
với các quỹ đạo 3d (Co và Mn) và p (Ga và B). Chúng cho thấy rằng sự thay thế
của Si và Ge có thể điều chỉnh TC của hợp chất nằm trong khoảng giữa
20 và 286 K, cùng với sự biến đổi của DSM
trong quá trình này. Đối với R = Mn, giá trị DSM cực
đại giảm xuống tới 17% bằng việc tăng lượng Mn từ z = 0,01 tới 0,1. Khi R là Co
và z trên 0,04, việc tăng Co tạo ra sự giảm mạnh của TC xuống tới
260 K cùng với DSM
tăng 13%. Đối với R = Ga hoặc B, entropy từ giảm nhẹ 12% khi lượng R tăng.
Chen đã nghiên
cứu tính chất từ của Gd5Si2-xGe2-xSn2x
(x = 0,05; 0,1; 0,15; 0,2; 0,25 và 0,5). Họ đã thông báo rằng DSM
của hợp kim Gd5Si2-xGe2-xSn2x tăng
khi nồng độ của Sn từ x = 0 đến x = 0,25. Đối với x ≤ 0,2, các hợp kim có một
pha của cấu trúc tinh thể loại Gd5Si2Ge2 đơn
tà chiếm ưu thế và một lượng nhỏ các pha loại Gd5Si4 tại
nhiệt độ phòng, pha này sẽ giảm khi nồng độ Sn tăng. DSM cực
đại của Gd5Si1,75Ge1,75Sn0,5 (chỉ
có một sự chuyển pha thuận từ - sắt từ) là 16,7 J/(kg.K) với sự thay đổi từ
trường là 1,8 T tại nhiệt độ TC của nó là 269 K. MCE của nó vượt quá
của Gd khoảng 2 lần. Khi thay thế Dy cho Gd trong Gd5Si4,
Xie đã cho thấy rằng TC giảm theo một hàm tuyến tính từ Gd5Si4
(TC=338 K) tới Dy5Si4 (TC=140 K),
nhưng DSM
chỉ giảm nhẹ, khoảng 8% đối với (Gd2,5Dy2,5)Si4
[11].
Ưu điểm của các hợp kim liên kim loại là có nhiệt dung thấp (do
có bản chất kim loại) và có mômen từ cao nên dễ tạo được biến thiên
entropy từ lớn. Tuy nhiên, loại vật liệu này vẫn bộc lộ những nhược
điểm là khó điều khiển giá trị TC, độ bền không cao do
chứa nhiều đất hiếm, chế tạo phức tạp, tính chất vật liệu gần
giống từ cứng (khó từ hóa) nên biến thiên entropy từ có giá trị lớn
chỉ đạt được khi biến thiên từ trường lớn. Hơn nữa, các mẫu chứa
nhiều Gd còn có một nhược điểm là giá thành cao.
2.
Vật liệu Perovskite manganite
Năm 1950,
lần đầu tiên Jonker và Santen đã tổng hợp cấu trúc loại perovskite đã bị biến dạng
của manganite - hợp chất có công thức chung là A1-xBxMnO3
(trong đó: A là nguyên tố đất hiếm có hóa trị III, như La, Pr, Nd, Sm, Eu, Gd,
Ho, Tb và Y; B biểu thị Na+, K+ và Ag+, hoặc
các ion kiềm thổ hóa trị II như Sr, Ca, Ba và Pb).
Hiện nay các
manganite đang thu hút sự chú ý trong lĩnh vực làm lạnh bằng từ trường do bởi
MCE lớn của chúng. Ví dụ, khi sự thay đổi của từ trường là 6 và 8 T, các giá
trị cực đại của DSM
trong hợp kim (La0,5Gd0,2)Sr0,3MnO3
đạt được là 7,2 và 8,8 J/(kg.K). MCE ở trên có thể phù hợp dùng cho các tủ lạnh
từ đã có mặt trong các năm gần đây. Tuy nhiên, TC của đa số các
manganite tách rời khỏi nhiệt độ phòng, điều này sẽ làm hạn chế những ứng dụng
của chúng trong các vùng nhiệt độ phòng. Vấn đề này có thể tránh được bằng các
hợp kim hóa các ion thay thế. Ví dụ, hợp kim La0,70Sr0,30MnO3
(LSMO) là một chất sắt từ có hiệu ứng từ nhiệt đáng kể với TC nhỏ
hơn 90oC, và sau đó TC được làm thấp xuống tới gần nhiệt
độ phòng khi ion La được thay thế bởi ion Er và Eu, cùng với sự tăng lên của PRCP
và giữ nguyên DSM
trong quá trình này.
Das và Dey
đã nghiên cứu nhóm perovskite manganite có chứa K của loại La1-xKxMnO3
(x = 0,05; 0,1 và 0,15) với kích cỡ tinh thể cỡ nanomet. Họ đã cho thấy TC
của hợp chất tăng từ 260,4 K (x = 0,05) lên đến 309,7 K (x = 0,15). Việc tăng
nồng độ K trong hợp chất làm tăng giá trị cực đại của DSM
tại 1 T lên tới 3 J/(kg.K), bằng khoảng 89% của Gd [11].
Điểm mạnh của vật liệu provskite là công nghệ chế tạo đơn giản,
độ bền hóa học cao và nhiệt độ curie dễ được điều khiển. Nhưng
chúng cũng có những điểm yếu nhất định. Đó là do chúng là vật
liệu ôxít có mômen từ bão hòa của vật liệu thấp do vậy rất khó
đạt được biến thiên entropy từ lớn trong từ trường bé. Mặt khác do
có bản chất là vật liệu gốm với nhiệt dung lớn do đó khó tạo ra Tad lớn.
3. Hiệu
ứng từ nhiệt trong các băng VĐH
Đây
là thế hệ vật liệu rất mới, được tập trung nghiên cứu trong những
năm gần đây ở các phòng thí nghiệm trong và ngoài nước. Điển hình
là nhóm nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Châu thuộc Trung tâm khoa học Vật liệu -
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. Phát
hiện đầu tiên của nhóm về hiệu ứng từ nhiệt trên băng VĐH nền sắt
là trên hệ vật liệu Fe73,5Si13,5B9Nb3Cu1
vào cuối năm 2004 và đã được mời trình bày báo cáo tại hội nghị
công nghệ nanô. Hợp kim Fe73,5Si13,5B9Nb3Cu1
đã được nhóm Giáo sư Nguyễn Châu nghiên cứu rất lâu để rồi phát hiện ra những
đặc tính quan trọng của nó có thể có cho MCE lớn: mômen từ cao, tính đồng nhất
rất cao, có tính từ mềm tuyệt vời. Và Giáo sư Châu đã đạt được: ΔSmax =
13,9 Jkg.K trong từ trường 1,35 kOe nhưng xảy ra ở nhiệt độ rất cao tới 593 K
(320oC). Nhóm của Giáo sư Châu đã phải rất đau đầu để cải tiến loại
vật liệu này, nhằm tạo ra GMCE ở vùng nhiệt độ phòng và nhóm đã thành công. Nếu
như những kết quả đầu tiên về GMCE trên các băng vô định hình trên họ Fe73,5
chỉ đạt được các thông số tuyệt vời ở vùng nhiệt độ cao thì nó chỉ mang tính
chất cơ bản, ít ý nghĩa ứng dụng. Thế hệ thứ hai được đưa ra sau họ Fe73.5
là họ Fe78Si4Nb5B12Cu1
dùng làm hợp kim mẹ ban đầu. Hợp kim mẹ có TC = 450 K, đạt được (ΔSm)max=11,2
Jkg.K trong từ trường 1,35 T. Có thể nói đây là một kết quả mới khiến nhóm cực
kỳ phấn khởi. Sáng kiến ở đây là giảm lượng Si, tăng Fe nhằm tăng mômen từ và tăng
hàm lượng Nb (quan trọng nhất). Các nguyên tố có nhiệt độ nóng chảy cao như
Nb, Zr, Mo,Ta… khi hòa trong dung dịch của của các hợp kim vô định hình sẽ nằm
ở các biên hạt (của các đám trật tự gần) và làm giảm tương tác trao đổi sắt từ
giữa các nguyên tố sắt từ do đó làm giảm mạnh nhiệt độ Curie (theo sách Modern
Magnetic Material, O'Handley, MIT, 2002). Có thể nói kết quả về hệ Fe78Si4Nb5B12Cu1
ngoài sự mong đợi của nhóm nghiên cứu trong Trung tâm Khoa học Vật liệu. Nếu
dùng hợp kim này làm hợp kim mẹ, sử dụng hiệu ứng thay thế để điều chỉnh nhiệt
độ hoạt động thì nó sẽ là một vật liệu tuyệt vời (ta thấy rằng hàm lượng Fe của
nó khá cao, dễ dàng đáp ứng tiêu chuẩn "có mômen từ lớn". Và nhóm đã
sử dụng nguyên tố Cr - một nguyên tố phản sắt từ để thay thế một phần cho Fe,
nhằm làm thay đổi nhiệt độ TC của hệ Fe78-xCrxSi4Nb5B12Cu1(tất
nhiên khi đó ta có thể làm giảm đi chút ít mômen từ của vật liệu). Theo các
kiến thức kinh điển, nhiệt độ Curie phụ thuộc vào cường độ tương tác trao đổi
giữa các nguyên tố sắt từ (trong hợp kim vô định hình thì chính là tỷ lệ thuận
với hàm lượng các nguyên tố sắt từ). Việc sử dụng Cr thay vào Fe sẽ làm xuất
hiện tương tác Fe - Cr, giảm đi tương tác Fe - Fe do đó chắc chắn sẽ dẫn đến
giảm nhiệt độ Curie. Với việc thay thế Cr cho Fe nhóm đã đạt được kết
quả TC = 307 K và |ΔSm|max=
8,1 J/kg.K đối với hệ Fe71Cr7Si4Nb5B12Cu1
và TC=297 K, |ΔSm|max= 8,16 J/kg.K đối với
hệ Fe70Cr8Si4Nb5B12Cu1.
Nhiệt độ TC đã giảm một cách đáng kể, mặc dù biến thiên
entropy từ có giảm đi đôi chút so với hợp kim mẹ ban đầu [3, 7].
Có
thể nói rằng việc phát hiện ra hiệu ứng từ nhiệt khổng lồ trong
các hợp kim VĐH là một phát hiện mới rất quan trọng bởi vật liệu
này kết hợp hầu hết ưu điểm của hai thế hệ vật liệu provskite và
hợp kim intermetallic đó là có biến thiên entropy từ khổng lồ và
nhiệt độ curie dễ dàng điều khiển bằng hiệu ứng thay thế. Một điểm
mạnh khác của hợp kim VĐH là biến thiên entropy từ lớn dễ dàng đạt
được trong biến thiên từ trường nhỏ. Để thấy rõ hơn những ưu điểm
của vật liệu VĐH ta xét bảng số liệu một số vật liệu tiêu biểu
thuộc các họ vật liệu đã trình bày.
Bảng 1: Các giá trị TC và |ΔSm|max của
một số vật liệu từ nhiệt tiêu biểu [7].
Vật liệu
|
TC (K)
|
H (kOe)
|
|ΔSm|max J/kg.K
|
La0,7Ca0,3MnO3
|
265
|
13,5
|
6,7
|
La0,7Sr0,3Mn0,98Ni0,02 O3
|
315
|
13,5
|
3,54
|
Pr0,9Pb0,1 MnO3
|
150
|
13,5
|
3,92
|
Pr0,6Pb0,4
|
275
|
13,5
|
3,70
|
(La0,5Pr0,5)0,6Pb0,4 MnO3
|
323
|
13,5
|
2,06
|
Gd
|
294
|
15,0
|
4,2
|
Gd5Ge2Si2
|
290
|
13,5
|
6,22
|
Fe73,5Si13,5B9Nb3Cu1
|
593
|
13,5
|
13,9
|
Fe64,5Cr9Si13,5Nb3B9Cu1
|
355
|
13,5
|
4,1
|
Fe78Si4Nb5B12Cu1
|
450
|
13,5
|
11,2
|
Fe71Cr7Si4Nb5B12Cu1
|
307
|
13,5
|
8,1
|
Fe70Cr8Si4Nb5B12Cu1
|
297
|
13,5
|
8,16
|
Nhận xét
Đăng nhận xét