100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX và lời bình (phần 3)
21- Nguyễn Duy
ĐÒ LÈN
níu váy bà đi chợ
Bình Lâm
bắt
chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm
nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên
chơi đền Cây Thị
chân đi đêm xem lễ
đền Sòng
mùi huệ trắng quyện
khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo
đảo bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi
cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở
đồng Quan
bà đi gánh chè xanh
Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập
thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ
hư - thực
giữa bà tôi và tiên Phật,
thánh thần
cái năm đói, củ dong giềng
luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng,
hương trầm
Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay
mất
đến Sòng bay, bay tuốt cả
chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi
đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga
Lèn
Tôi đi lính, lâu không về
quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở
bên bồi
khi tôi biết thương bà thì
đã muộn
bà chỉ là một nấm cỏ thôi.
Lời bình
Nguyễn Duy là một trong những
nhà thơ nổi tiếng của thơ ca thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Chùm thơ: Tre Việt
nam, Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông đã giành giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn
nghệ năm 1973.
Đò Lèn là một địa danh nổi tiếng ở Thanh Hoá, quê hương tác
giả. Bài thơ viết về người bà cùng những kí ức tuổi thơ gắn liền với địa danh
thân thiết ấy cho thấy cảm hứng về cội nguồn là một nét đẹp trong cảm xúc thơ
của tác giả.
“ Đò Lèn ” tập
trung những nét tiêu biểu nhất trong phong cách thơ Nguyễn Duy như nhận định
của Sách giáo khoa “ Ngữ văn 12 ”:
“ Thơ Nguyễn Duy hướng tới cái đẹp của
đời sống giản dị quanh ta, phát hiện trong thế giới quen thuộc ấy sự lắng kết
của những giá trị vĩnh hằng. Những xúc
cảm chân thành, những suy tư sâu sắc được diễn tả bằng một hình thức thơ vừa
giàu tính cách dân gian vừa phảng phất phong vị thơ cổ điển phương Đông ”.
( Ngữ văn
12, Tập một - SGK thí điểm,
Ban khoa
học xã hội và nhân văn, bộ 1.
NXB Giáo
dục, Hà Nội - 2005, tr 223 )
Cùng với “ Đò Lèn ”,
các bài thơ: Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng … là những bài thơ
hay của thế kỷ XX.
22- Nguyễn Khoa Điềm
KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG
MẸ
Em cu Tai ngủ trên
lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan
đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi
bộ đội
Nhịp chày nghiêng
giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi trên
má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô
làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát
thành lời:
-
Ngủ
ngoan A kay ơi, ngủ ngoan A kay hỡi
Mẹ thương A kay, mẹ thương
bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng
ngần
Mai sau con lớn vung chày
lún sân
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ
Em ngủ ngoan đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
-
Ngủ
ngoan A kay ơi, ngủ ngoan A kay hỡi
Mẹ thương A kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi…
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
-
Ngủ
ngoan A kay ơi, ngủ ngoan A kay hỡi
Mẹ thương A kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự Do
Lời bình
Nói đến Nguyễn Khoa Điềm,
đông đảo bạn đọc trong cả nước đều biết đến bài “ Đất Nước ” nổi tiếng,
trích phần đầu chương V của trường ca “ Mặt đường khát vọng ”.
“ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ” được tác
giả sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay
của ông.
Bài thơ đồng thời là lời hát
ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan ( đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ ).
Người mẹ ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim ( Lưng
đưa nôi và tim hát thành lời ). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ
nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm
thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng.
Bài thơ “ Khúc hát ru
những em bé lớn trên lưng mẹ ” là một trong những đài kỷ niệm kì vĩ ghi lại
chiến công và lòng yêu nước của những con người vô danh trong hai cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại.
23- Cầm Giang
NÚI MƯỜNG HUNG - DÒNG SÔNG MÃ
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu,
nhiều cá
Núi nhiều thú,
nhiều măng
Chiều bóng anh che
sông
Sớm mặt em lóng lánh
Sáo cành cây anh thổi vang
lanh lảnh
Gió lùa qua miệng anh lại
mỉm cười
Rộn lòng em thuyền độc mộc
ngược xuôi
Như trăm nỗi băn khoăn khi
đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả mình ngăn lại lúc
phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng
Thi nhau lớn đẹp nương
Toả mùi thơm cùng nghe chim
hót
Em cứ về nhà trước
Đợi anh ở bên sông
Anh làm no lòng mường
Em làm vui ấm bản
Nếu con gấu giẫm gẫy cành
bông trắng
Là lúa anh sẽ cứa đứt chân
Nếu lúa này chuột khỉ dám
đến ăn
Xơ
bông em sẽ bay mù mắt nó.
Anh
là rừng thẳm
Em
là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên dòng suối
Hoa sim nở đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Nếu hùm về, suối em sẽ thành
thác
Nếu sói về, rừng anh sẽ
thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá tan bóng tối
Rừng anh chặn lại bão dông
Để anh lớn mãi thành núi
Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng
sông Mã.
Lời bình
Núi Mường Hung là núi lớn nhất ở Sơn La
và Lai Châu. Núi và sông, Em và Anh là những hình ảnh nổi bật, đan cài xuyên
suốt bài thơ.
“ Núi Mường Hung - Dòng sông
Mã ” như một truyện thơ ngắn của các dân tộc Tây Bắc lại đậm đà chất sử thi Tây
Nguyên.
24- Lữ Giang
ĐÀN BẦU
Tặng anh Nguyễn Đình Phúc
Lời bình
25- Nam Hà
CHÚNG
CON CHIẾN ĐẤU CHO NGƯỜI SỐNG MÃI VIỆT NAM ƠI!
Lời bình
Đây là một trong những bài thơ hay viết
về đề tài Đất Nước. Bài thơ ra đời trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và có trong sổ tay của đông đảo thanh niên, học sinh và những người lính
trẻ trước giờ ra trận.
Đoạn thơ sau được nhiều người yêu thích:
26- Nguyễn Phan Hách
LÀNG QUAN HỌ
Lời bình
27- Định Hải
BÀI CA VỀ TRÁI ĐẤT
Lời bình
28- Thanh Hải
MÙA XUÂN NHO NHỎ
Một bông
hoa tím biếc
Ơi, con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Mùa xuân - ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
11-1980
Lời bình
Thanh Hải viết bài thơ này
vào tháng 11-1980 trong thời gian ông bị ốm nặng, ít lâu sau ông mất. Song bài
thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ” vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống, thể
hiện sự gắn bó thiết tha, sâu nặng với cuộc đời, đặc biệt là tinh thần, ý thức
trách nhiệm của ông đối với đất nước và dân tộc.
Chủ đề của bài thơ được bộc
lộ rõ nhất trong hai khổ thơ:
Ta làm con
chim hót
Ta làm một
cành hoa
Ta nhập
vào hoà ca
Một nốt
trầm xao xuyến.
Một mùa
xuân nho nhỏ
Lặng lẽ
dâng cho đời
Dù là tuổi
hai mươi
Dù là khi
tóc bạc
29- Tế Hanh
QUÊ HƯƠNG
Làng tôi ở vốn
làm nghề chài lưới:
Nước bao vây,
cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong,
gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng
bơi thuyền đi đánh cá:
Chiếc thuyền
nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo,
mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm
trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng
bao la thâu góp gió…
Ngày hôm sau,
ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng
tấp nập đón ghe về
“ Nhờ ơn trời
biển lặng cá đầy ghe”
Những con cá
tươi ngon thân bạc trắng
Dân chài lưới,
làn da ngăm râm nắng
Cả thân hình
nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im
bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối
thấm dần trong thớ vỏ.
Nay xa cách
lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh,
cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoảng con
thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ
cái mùi nồng mặn quá !
Lời bình
Cánh
buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn
thân trắng bao la thâu góp gió…
Hình ảnh người dân chài lưới và những chiếc thuyền về bến
yên nghỉ sau một ngày lao động cũng thật tài tình:
Chiếc
thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe
chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Bài thơ của Tế
Hanh trong sáng, có nét hồn nhiên nhưng không kém phần sâu sắc. Lời thơ giản
dị, những hình ảnh, chi tiết đều được nảy sinh từ cảm xúc, tình cảm chân thành
của tác giả.
Trở lại với đề
tài này, năm 1956 Tế Hanh có thêm một bài thơ đặc sắc “Nhớ con sông quê
hương ”.
Có thể kể thêm
một bài thơ hay, xúc động khác của Tế Hanh về đề tài tình yêu - đấu tranh thống
nhất nước nhà: bài “ Chiêm bao ”.
30- Trần Mạnh Hảo
ĐÊM AN GIANG
Đêm An Giang như bà mẹ tảo
tần
Mẹ thức suốt canh chừng đàn
con ngủ
Đất biên giới choàng trời
sao quần tụ
Như tấm vải dù tôi khoác
nguỵ trang.
Có thể đêm nay bọn giặc mò
sang
Có thể chúng lại đốt nhà,
ném trẻ con vào lửa
Phải chặn đứng bóng đêm
thời trung cổ
Phải diệt trừ tội ác thuở
hồng hoang.
Bảy Núi trời đêm màu sữa
mịn màng
Cây cỏ chiêm bao, chim
muông đẫy giấc
Thức cùng chúng tôi tuần
tra trinh sát
Cả bầu trời gieo hạt suốt
đêm thâu.
Đất nước phía Tây nam một
dải tuyến đầu
Một dải rừng, dải làng, dải
núi
Không thể để một mầm cây bị
cháy
Một nắm đất biên thuỳ cũng
chính lòng ta.
Những bàn chân im lặng bước
tuần tra
Những ngọn súng tinh tường
xuyên bóng tối
Tổ quốc đây và nhân dân ở
đấy
Đôi mắt tôi nhìn mang lửa
cháy nghìn xưa.
Dân tộc mấy trăm năm đội
nắng, dầm mưa
Mở đất, mở rừng, khai sơn,
phá thạch
Mới có cánh cỏ, mái nhà, sử
sách
Đất đai này huyết mạch của
cha ông.
Đêm nay sao trời đang xếp
lại thành sông
Em bé ngủ trong nôi say
nồng như hạt lúa
Đêm nay làng bên có chàng
trai vừa hỏi vợ
Rẫy bắp trổ cờ, chim trong
tổ thiu thiu.
Bàn tay tôi ôm khẩu súng
nâng niu
Quen thuộc như ngày xưa ôm
bó lúa
Những bà mẹ đêm nay ôm con
thơ say ngủ
Tất cả yên lành sau nhịp
bước tuần tra.
Đêm An Giang ngọn gió, quá
hào hoa
Thong dong thổi bay mùi cây
mùi đất
Phải ngọn gió đang cùng tôi
trinh sát
Biên giới và đêm, sao rải
khắp chân rừng.
1979
Lời bình
“ Đêm An Giang ” sáng
tác năm 1979 là bài thơ hay của Trần Mạnh Hảo viết về cuộc chiến tranh biên
giới phía Tây Nam.
Hình ảnh người lính, hình ảnh Tổ quốc hiện lên thật sinh
động, độc đáo:
Những bàn
chân im lặng bước tuần tra
Những ngọn
súng tinh tường xuyên bóng tối
Tổ quốc
đây và nhân dân ở đấy
Đôi mắt
tôi nhìn mang lửa cháy nghìn xưa.
Dân tộc
mấy trăm năm đội nắng, dầm mưa
Mở đất, mở
rừng, khai sơn, phá thạch
Mới có
cánh cỏ, mái nhà, sử sách
Đất đai
này huyết mạch của cha ông.
Nhận xét
Đăng nhận xét