100 bài thơ hay nhất thế kỉ XX và lời bình (phần 2)


11- Hoàng Cầm

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

                             Em ơi buồn làm chi
                             Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợi Sủi, người đua chen
Bãi Trầm  Chỉ, người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua, còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gày teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây, tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giầy vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây, bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương

Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe, giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân

Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa
          Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ, võng đưa rầu rầu:
- “ À … ơi ! Cha con chết trận từ lâu
          Con càng khôn lớn càng sâu mối thù ”
                   Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét, mịt mù mưa bay:
          “ Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu … ”

Em ơi ! đừng hát nữa, lòng anh đau,
Mẹ ơi ! đừng khóc nữa, dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm trong tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời …

Bây giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
                                                                  
Việt Bắc – tháng 4 năm 1948
Lời bình:

Tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nhân dân đằm thắm, thiết tha là cảm hứng bao trùm của bài thơ “ Bên kia sông Đuống ”.
Giá trị thẩm mỹ đặc sắc nhất của bài thơ chủ yếu tập trung ở đoạn một và phần một của đoạn hai. Tuy nói về một vùng đất cụ thể ( xứ Kinh Bắc ) nhưng Hoàng Cầm gợi lên được trong lòng người đọc tình cảm sâu lắng đối với mọi làng quê Việt Nam.
Ba câu thơ hay nhất trong bài, có sức ám ảnh lay động tâm hồn người đọc:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ ” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, đầy ấn tượng. Cái dáng nằm “ nghiêng nghiêng ” đã tượng hình lên con sông Đuống, làm cho nó hiện ra như một sinh thể sống động.
12- Hoàng Nhuận Cầm

                              ANH BỘ ĐỘI VÀ TIẾNG NHẠC LA
         
Anh bộ đội xắn quần đi trong mưa
          Bầy la theo rừng già, rừng thưa
Rừng đâu chỉ có giọng chim lạ
Còn có tiếng nhạc trên cổ la.

Những cây nấm nâu, màu nâu già,
Tự dưng thức dậy bên vòm lá
Những bông hoa chưa có tên hoa
Bỗng nhiên mở cánh ra nghe ngóng.

Tiếng nhạc trên cổ la rung rung
Đã sáu năm là bài hát của rừng,
Có những con đường hoang dại lắm
Chỉ in chân la và chân anh.

Những con đường xa, con đường xanh
Sáng lên viên đạn vàng căm giận,
Cần mẫn bầy la đi ra trận
Bao gùi hàng hồi hộp trên lưng …
Lời bình:

Năm 1971, Hoàng Nhuận Cầm nhập ngũ vào binh chủng phòng không - không quân, đã chiến đấu tại các mặt trận Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế .
Bài thơ không viết về những cuộc chiến đấu ác liệt mà viết về vẻ đẹp bình dị, lãng mạn của anh bộ đội vận tải đối với đàn la gùi hàng, cần mẫn đi ra mặt trận.
Bài thơ  “ Anh bộ đội và tiếng nhạc la ” đậm đà chất lãng mạn của một tâm hồn thi sĩ - chiến sĩ, của người lính trẻ vừa mới dời ghế nhà trường bước vào quân ngũ.

13- Phạm Ngọc Cảnh

                                        SƯ ĐOÀN

Sẽ có những sư đoàn thép
Bất kỳ nơi đâu
Không khuất phục tù đầy chém giết
Nơi đâu
Người sống nợ nần người đã chết
Bất kỳ nơi đâu, từ một cây “ mút nhét ”
Một sải xuồng bơi
Một nọc ong châm góp làm làm sự nghiệp
Gốc tre xanh thắng trận cả ba đời
Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa.
Vạch lối điều quân
Vai đẩy xe thồ
Trồng cây xanh che chở
Mỗi bước quân đi
Đánh trận trường kỳ
Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa
Sớm sau dàn trận chính quy
Đến trận bão hiệp đồng cả nước
Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi …
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ – sư đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên, vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân …
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
Bài học chiến tranh nhân dân
Lại tiếp
Trang Ấp Bắc, Plây Me…
Đất nước sẽ cho ta
Những chùm con số đẹp
Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thép
Này đây
Doi cát Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông, bẫy đá, cung tên
Này đây Cực Nam, Phan Rang, Phan Thiết
Này đây Quảng Ngãi, Phú Yên…
Trên nguồn xa Ô Lâu, Thạch Hãn
Sẽ tiến về
Sư đoàn Trị Thiên

Lại có một ngày
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở
Như Hà Nội đã từng
Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió
Đón con em
Đón những sư đoàn
Mang chiến thắng trở về
Rập bước
Ca vang.
Lời bình:

Bài thơ “ Sư đoàn ” viết về sự trưởng thành và những chiến công rực rỡ của các sư đoàn, của Quân đội ta - Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Âm hưởng bài thơ sôi nổi, hào hùng như một bản anh hùng ca:

Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc.
Đọc những câu thơ này tôi lại nhớ đến một đoạn thơ hùng tráng trong bài thơ “ Việt Bắc ” của nhà thơ Tố Hữu:

Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng,
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
14- Huy Cận
                   
TRÀNG GIANG
                                                         
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

                             Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
                             Con thuyền xuôi mái nước song song,
                             Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
                             Củi một cành khô lạc mấy dòng.

          Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
                             Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa,
Làng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Lời bình:

Đây là một trong những bài thơ hay nhất và cũng rất tiêu biểu của thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
Một bài thơ về thiên nhiên cao rộng bát ngát, chót vót, dài đặc. Có một vẻ đẹp trang nghiêm cổ điển. Có một nỗi buồn xâm chiếm cả linh hồn tạo vật… Hồn thơ Huy Cận buồn nhất là khi nói về mưa và cảnh chiều tà. Đây là cảnh chiều tà trên một vùng bãi bờ sông nước vắng vẻ, đẹp nhưng rất buồn.
Ý vị cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ. Đó là hình ảnh nhà thơ một mình trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô tận, vô cùng của không gian thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển đến hai câu thơ cuối lại được tô đậm thêm nữa bằng một tứ thơ Đường:
“ Làng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ”.
Câu thơ Thôi Hiệu trong “ Hoàng Hạc Lâu ”: “ Yên ba giang thượng sử nhân sầu ” ( Tản Đà) dịch : “ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ” ). Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà - Nhà thơ mới, không thấy khói sóng cũng nhớ nhà. Như thế là nỗi nhớ nhà của cái tôi lãng mạn còn da diết hơn nữa. Và có lẽ chỉ đến “ Thơ mới ” thì nỗi buồn nhớ quê hương mới có được cái cảm giác “ dờn dợn ” như thế.
Có thể nói, tình yêu quê hương đất nước là nội dung cảm động nhất của bài thơ này.



CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG

                             Các vị Lan Hán chùa Tây Phương
                             Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương ?

Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.

Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.

Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn …

Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.

Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tương không khóc cũng đổ mồ hôi.

Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.

Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân?

Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?

Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.

Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.

Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hy vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.

Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.

Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìm mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương

Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.
                                                         
27-12-1966
Lời bình:

Từ trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đã có dịp đến thăm chùa Tây Phương và sau đó còn nhiều lần trở lại. Cuối năm 1960, ông viết bài thơ “ Các vị La Hán chùa Tây Phương ” .
Được khơi gợi cảm hứng từ những pho tượng La Hán, nhưng bài thơ của Huy Cận không phải là tác phẩm bàn luận về Phật giáo mà chỉ là sự thể hiện một cách cảm nhận và suy ngẫm về quá khứ lịch sử của dân tộc.
Đoạn đầu ( 8 khổ thơ đầu ) là đoạn thơ hay nhất. Nhà thơ đã đặc tả từng gương mặt, hình hài, dáng dấp của các vị La Hán bằng nhiều ngôn từ giàu chất tạo hình. Ông như tạc vào lòng người đọc những đau đớn, vật vã, quằn quại, chua xót… những khổ đau về vật chất và tinh thần rất trần thế:
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Ông trân trọng trước những nghĩ suy, những đau đời của người xưa nhưng cũng rất xót xa cho sự bất lực ấy. Càng trăn trở, lại càng rơi vào bế tắc.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Chế Lan Viên trong bài “ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng chăng ” cũng nói đến một ý tương tự:
“ Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi … ”
Phần sau của bài mang yếu tố chính luận. Nhà thơ muốn gửi gắm vào đấy những triết lý về nhân sinh và vũ trụ, muốn khẳng định, chỉ có thời đại mới, với bản chất nhân đạo của nó và bằng thực tế đấu tranh của những thế hệ hậu sinh mới có thể tìm được lời giải cho những câu hỏi đau đời.
Huy Cận còn có những bài thơ khác có thể chọn là những bài thơ hay của thế kỷ XX như: Đi giữa đường thơm, Thu rừng, Đoàn thuyền đánh cá, Trò chuyện với Kim Tự Tháp, Ngã ba Đồng Lộc



15- Nông Quốc Chấn
                            
          DỌN VỀ LÀNG
                                                ( Nguyên bản bằng tiếng Tày, tác giả tự dịch )

Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn.
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi.
Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ
Phát ruộng nương rào vườn tược làm ăn.

Mấy năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy.
Chạy hết núi khe, cay dắng đủ mùi,
Nhớ một hôm mịt mù mưa rơi,
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa.
Đường đi lại vắt bám đầy chân.

Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến làng
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vét hết áo quần trong túi,
Mẹ đìu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nải,
Bà bị loà mắt không biết lối bước đi.

Làm sao bây giờ? Ta phải chống,
Nó đã bắt cha con đi, nó đánh.
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng liền nổ ngay cùng một loạt
Cha ngã xuống nằm trên mặt đất
Cha ơi! cha không biết nói rồi …
Chúng con còn thơ, ai dạy nuôi?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “ nín ” con im
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất,
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng
Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn,
Băm xương thịt mày, tao mới hả!

Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng,
Người nói cỏ lay trong rừng rậm,
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con.
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ,
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá
Từ nay không ngập cỏ lối đi
Hổ không dám đến đẻ con trong vườn chuối
Quả trong vườn  không lo tự chín, tự rụng
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng
Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi cỏ giầy không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa.

Mặt trời lên ! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, Mỹ còn giết người cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi con sẽ về trông mẹ.

Mùa đông 1950
Lời bình:

 Nông Quốc Chấn là nhà thơ dân tộc Tày, trưởng thành trong thời kù kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “ Dọn về làng ” được sáng tác vào năm 1950, khi quân dân ta chiến thắng thực dân Pháp, giải phóng Cao - Bắc - Lạng.
Bài thơ đã phản ánh không khí vui tươi, phấn khởi, niềm vui say chiến thắng của nhân dân miền núi cũng như lòng căm thù của họ đối với bọn thực dân Pháp và tay sai; đồng thời bài thơ thể hiện ý chí, quyết tâm chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thơ Nông Quốc Chấn nói chung, bài thơ “ Dọn về làng ” nói riêng mang đậm phong cách thơ miền núi với hai đặc điểm lớn: Có nhiều chi tiết, hình ảnh chân thực của đời sống và lối cảm nghĩ bằng những hình ảnh cụ thể của đời sống.


16- Đoàn Văn Cừ
                            
CHỢ TẾT

                             Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
                             Sông hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa xanh nằm dưới ánh bình minh.

Người mua bán ra vào đầy cổng chợ
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán
Một thầy khoá gò lưng bên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít  chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa
Những mẹt cam đỏ chói tựa son pha,
Tháng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem
Chợ tưng bừng như thế tới gần đêm
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh
Trên con đường đi các làng hẻo lánh
Những người quen lũ lượt trở ra về
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
                                               
          1939
Lời bình:

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong tập sách nổi tiếng “ Thi nhân Việt Nam ” đã nhận xét: “ Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ ”. Nhận xét này đã được thể hiện cụ thể, sinh động qua bài thơ  “ Chợ Tết ” của ông.
Bài thơ được sáng tác năm 1939. Bài thơ hay, độc đáo vì đã miêu tả chân thật, sinh động những nét tiêu biểu trong sinh hoạt của làng quê. Với cái nhìn hóm hỉnh, nhiều chi tiết điển hình,với sự mẫu mực của văn miêu tả, có những câu thơ có sức khái quát, có kí ức tâm trạng… Đoàn Văn Cừ đã làm mới lại, làm lạ hoá một khung cảnh quen thuộc từ bao đời, giữ lại mãi mãi cho mai sau cái phong vị dân dã xóm làng cùng những nét sinh hoạt đặc sắc của một thời.

17- Lâm Thị Mỹ Dạ
                            
          KHOẢNG TRỜI - HỐ BOM

                             Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
                             Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù, hứng lấy luồng bom…

Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
Một nấm mồ, nắng ngời bao sắc đá,
Tình yêu thương bồi đắp cao lên…
Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Đất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau.

Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh.

Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hoá thành những vầng mây trắng
Và ban ngày khoảng trời ngập nắng
Đi qua khoảng trời em - Vầng dương thao thức
Hỡi mặt trời, hay chính trái tim em trong ngực
Soi cho tôi
Ngày hôm nay bước tiếp quãng đường dài ?

Tên con đường là tên em gửi lại
Cái chết em xanh khoảng trời con gái
Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em.
Gương mặt em, bạn bè tôi không biết
Nên mỗi người có gương mặt em riêng.
                                                         
10-1972


Lời bình:

Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ nữ khá nổi tiếng, xuất hiện trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Khoảng trời - hố bom ” ở trong chùm thơ của tác giả được tặng giải Nhất cuộc thơ thi báo Văn nghệ năm 1972-1973.
Bài thơ là lời tưởng niệm đầy xúc động về sự hy sinh của người nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn những năm chiến tranh chống Mĩ.
Sự hy sinh cao cả của cô gái đã được nhà thơ cảm nhận như là sự hoá thân vào quê hương, đất nước, trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên và trong cuộc đời những người đang sống.
Các hình ảnh của bài thơ được xây dựng theo mối liên tưởng về sự chuyển hoá, hoá thân của sự sống con người vào trong thế giới thiên nhiên, gợi ra sự hài hoà và ý niệm về sự bất tử ( tâm hồn - vì sao, thịt dạ - vầng mây, mặt trời - trái tim).Trong cái nhìn thấm đầy cảm xúc, mọi sự vật hình ảnh của thiên nhiên đều chứa chất sự sống con người, trở nên sâu thẳm thiêng liêng và đầy sức ám ảnh:
“ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hoá thành những vầng mây trắng
Và ban ngày khoảng trời ngập nắng
Đi qua khoảng trời em - Vầng dương thao thức
Hỡi mặt trời, hay chính trái tim em trong ngực
Soi cho tôi
Ngày hôm nay bước tiếp quãng đường dài ? ”.

18- Xuân Diệu
         
 ĐÂY MÙA THU TỚI

                             Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…

Mây vẩn từng không, chim bay đi.
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.

Lời bình:

Bài thơ “ Đây mùa thu tới ” không ra đời trong một khoảnh khắc đối cảnh sinh tình, mà là một cảm nhận tổng hợp về một cuộc chuyển mùa. Ở đây tác giả nhận ra mùa thu đến với nhiều khung cảnh và trong nhiều thời điểm khác nhau: một hàng liễu bên hồ, một cảnh vườn tược lá rụng hoa tàn, một vầng trăng thu ngẩn ngơ, một bến đò vắng, một cảnh phố xá đìu hiu có những cô gái tựa cửa bâng khuâng…
Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Khác với mùa thu trong thơ của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà … cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới và riêng. Đó là chất trẻ trung, tươi mới được phát hiện qua con mắt “ xanh non ” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xôn xao trong cảnh vật, là cảm giác cô đơn “ run rẩy ” của cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khát khao giao cảm với đời.
Trong tập “ Trường ca ”, Xuân Diệu từng viết: “ Trời muốn lạnh nên người ta cần nhau hơn. Và người nào chỉ có một thân thì cần một người khác… Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà rất cần đôi; cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau ”.
Đó phải chăng cũng là tâm trạng của tác giả “ Đây mùa thu tới ” và của những nàng thiếu nữ trong bài thơ này chăng ?
Một số bài thơ khác của Xuân Diệu cũng có thể được xếp là những bài thơ hay của thế kỷ XX như: Nguyệt Cầm, Lời kỹ nữ, Thơ duyên, Vội vàng, Biển, Quả sấu non trên cao



BIỂN

                                      Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê…

Bờ đẹp đẽ cát vàng
Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng…

Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi.

Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt …

Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm

Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm bể biếc
Để hát mãi bên gành
Một tình chung không hết.

Để những khi bọt tung trắng xoá
Và gió về bay toả nơi nơi
Như hôn mãi ngàn năm không thoả,
Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi !
                  
                                                4-4-1962
Lời bình:

Xuân Diệu đã có lần nói về sáng tác này: “ Biển nằm trong cuộc đời tôi vì tôi ở Quy Nhơn từ khi còn nhỏ. Bố tôi dắt tôi ra biển, gió nồm nam thổi mát quá, tôi ngủ say. Đến khoảng 9 giờ rưỡi đêm không thức tôi dạy được nữa, bố tôi tôi phải vác tôi lên vai. Lúc bấy giờ, tôi mới chín mười tuổi đầu, trên vai bố tôi, chập chờn thức ngủ, tôi vẫn còn nghe tiếng sóng biển. Biển Quy Nhơn có núi Phương Mai, ở bên trái có hòn Cù Lao Xanh, những cái đó đã vào hồn tôi từ thơ bé, nhất là khi tôi qua Gành Ráng sóng biển cứ vỗ vào bờ và nhịp điệu của biển vào trong thơ tôi ” .
Tuổi trẻ, tình yêu, thời gian là đề tài có sức hẫp dẫn đối với Xuân Diệu. Năm 1962, khi ở tuổi không còn trẻ nữa ( Xuân Diệu sinh năm 1916 ), nhà thơ viết bài thơ “ Biển ”. Thi phẩm vẫn nguyên vẹn một tâm hồn thật trẻ, vẫn nguyên vẹn một tình yêu nồng nàn, bền bỉ, mạnh mẽ và cuồng nhiệt cả về trường độ và cường độ:
“ Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt … ”

Biển ” thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, với thiên nhiên và cuộc sống.
Xuân Diệu không chỉ là nhà thơ của tình yêu mà còn là nhà thơ của cảm xúc và cảm giác.
Bài thơ “ Biển ” được chính tác giả và đông đảo bạn đọc coi là một trong số ít bài thơ thơ hay nhất viết sau Cách mạng tháng Tám. Cùng với Cảm xúc, Vội vàng, Đây mùa thu tới, bài thơ “ Biển ” hoàn chỉnh một phong cách thơ Xuân Diệu, thi sĩ của tình yêu.



19- Phạm Tiến Duật
                            
 LỬA ĐÈN

 I- Đèn
         
                             Anh cùng em sang bên kia cầu
                             Nơi có những miền quê yên ả
                             Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn hiệu
Trỏ lối sang mùa hè,
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu,
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng …
Mạch đất ta dồi dào sức sống
Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương.
Chúng nó đến từ bên kia biển
Rủ nhau ra như lũ ma trơi
Từ trên trời bảy trăm mét
Nhìn thấy lửa que diêm sáng mặt người,
Một nghìn mét từ trên trời
Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ bé
Tám nghìn mét
Thấy ánh lửa đèn hàn chớp loé
Mà có cần đâu khoảng cách thấp cao
Chúng lao xuống nơi nao
loè ánh lửa,
gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.
Trên đất nước đêm đêm
sáng những ngọn đèn
Mang lửa từ nghìn năm về trước,
lấy từ thuở hoang sơ,
Giữ qua đời này đời khác
Vùi trong tro trong trấu nhà ta
Ôi ! Ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy
Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy.


II- Tắt lửa

Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi tắt lửa đêm đêm khiến đất trời rộng quá
Không nhìn thấy gì đâu
Bóng tối che rồi
Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi
Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói,
Bông hoa làm duyên phải luỵ hương bay …
Bóng tối phủ dày
Che mắt địch.
Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích
Kéo pháo lên trận địa đồng cao
Tiếng khẩu đội trưởng ở đâu
Đấy là đuôi khẩu pháo
Tiếng anh đo xạ điểm đều nhịp chày giã gạo
Vang ở đâu, đấy là giữa trận đồ
Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ô tô
Những đoàn xe đi như không bao giờ hết,
Chiếc sau nối chiếc trước ì ầm
Như đàn trẻ con chơi u chơi âm
Đứa này nối hơi đứa khác.
Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát
Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường
Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét
Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương
Đêm tắt lửa trên đường
Khi nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
là tiếng những đoàn quân xung kích
Đi qua.
Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
Bóng tối dâng đầy toả ngợp bao la,
Thành những màn đen che những bào thai chiến dịch
Bóng đêm ở Việt Nam
Là khoảng tối giữa hai màn kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn lao.
Bóng đêm che rồi không nhìn thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.



III- Thắp đèn

Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm,
Chiếc đèn chui vào lòng trái núi
Cho xưởng máy thay ca vồi vội
Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc những lá thư thăm…
Ta thắp đèn lên trên đỉnh núi
Gọi quân thù đem bom đến giội
Cho đá lở đá lăn
Lấy đá kè cầu, lấy đá sửa đường tàu
Ta bật đèn pha ô tô trong chớp loè ánh đạn
Rồi tắt đèn quay xe
Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi…

Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng
Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng
“ Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm ”
Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh
Ta dẫn nhau lên ngôi nhà đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp
Mang hình những người những cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.

Lời bình:

Cùng với các nhà thơ: Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa…, Phạm Tiến Duật là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ cứu nước.
Với chùm thơ 4 bài: Nhớ, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, tác giả đã đạt giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ 1969-1970.
Bài thơ “ Lửa đèn ” được sáng tác năm 1967 đã thể hiện rõ phong cách thơ của Phạm Tiến Duật như Sách giáo khoa “ Ngữ văn 12 ” đã nhận định:
“ Thơ ông có khuynh hướng chủ yếu tìm cảm hứng từ trong các diễn biến sôi động của cuộc sống. Phạm Tiến Duật sử dụng linh hoạt câu thơ văn xuôi trong nhiều bài. Ông đã đem vào cho thơ một giọng điệu lạ, vừa trang nghiêm lại vừa có chút đùa nghịch, vừa lắng sâu trách  nhiệm lại vừa thanh thản tươi vui ”.
( Ngữ văn 12, Tập một - SGK thí điểm,
Ban khoa học xã hội và nhân văn, bộ 2.
NXB Giáo dục, Hà Nội - 2005, tr 247 )
Lửa đèn; Gửi em cô thanh niên xung phong; Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Áo của hôm nào người của hôm nay … là những bài thơ hay của thế kỷ XX.





BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

                             Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Nhìn sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới      
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì  miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
                                                          1969
Lời bình
Thơ ca từ Cách mạng tháng Tám đến nay có nhiều bài thơ hay viết về người lính - “ Anh bộ đội Cụ Hồ ” trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại: Nhớ - Hồng Nguyên, Đồng chí - Chính Hữu, Tây Tiến - Quang Dũng, Hoan hô chiến sỹ Điện Biên - Tố Hữu, Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu, Tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật, Năm anh em trên một chiếc xe tăng - Hữu Thỉnh, Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân ... trong đó “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính “ của Phạm Tiến Duật, sáng tác năm 1969 là một bài thơ hay, độc đáo, mới lạ và hấp dẫn.
          Nhiều nhà thơ và nhà phê bình nghiên cứu văn học nhất trí vơi nhau về các mốc đầu tiên của thơ chống Mỹ và coi Phạm Tiến Duật là người mở đầu cho giai đoạn. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét; “ Anh Duật có thể coi là lứa đầu của lớp nhà thơ xuất thân trong kháng chiến chống Mỹ. Phải đến Phạm Tiến Duật, thơ lớp trẻ mới thực sự vào trận. Trước đó, mới chỉ là người đưa tiễn, người cắm lá ngụy trang cho trận địa”.
           Là người trong cuộc, gắn bó máu thịt với Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã có nhiều bài thơ hay viết về vùng đất này, về đường Trường Sơn –“Đường Hồ Chí Minh” nổi tiếng trong lịch sử.
          Với chùm thơ bốn bài: Nhớ, Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, Phạm Tiến Duật đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ do “Báo Văn nghệ” tổ chức năm 1969 - 1970.
          “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là sản phẩm của những năm tháng gian khổ mà hào hùng của người lính lái xe Trường  Sơn.
          Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết độc đáo - những chiếc xe không kính chắn gió vẵn băng băng trên  đường ra trận:

                         Không có kính không phải vì xe không có kính
                          Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
                          Ung dung buồng lái ta ngồi,
                          Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

          Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường hàng ngày. Điều đó cũng được thể hiện trong nhiều bài thơ khác của anh. Đó là một nét độc đáo trong phong cách thơ của thi sĩ – chiến sĩ này.
          Cái gian khổ hiểm nguy: Bom giật làm vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó là chuyện bình thường với người lính lái xe trong thời chiến. Tác giả đã miêu tả sinh động sự khắc nghiệt của chiến tranh, những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”, Xe không có kính nên “gió vào xoa mắt đắng”, “bụi phun tóc trắng như người già”, ướt áo vì “mưa xối như ngoài trời”.
          Những người lính chấp nhận gian khổ, coi thường hiểm nguy, ung dung, hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng yêu của lính lái xe. Mặt đầy cát bụi nhưng:

                         Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
                         Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

          Cái dáng “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật tư thế hiên ngang, tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.
          Mưa to, áo quần ướt  sũng nhưng:

                             Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
                             Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

          Cái hay, vẻ đẹp của bài thơ còn thể hiện ở sự hồn nhiên, giàu chất hiện thực và lãng mạn, gợi ta nhớ đến một ý kiến sâu sắc: “ Tác phẩm nào đối với ta có vẻ hồn nhiên và như sản phẩm tự nhiên của thời đại, bao giờ cũng là kết quả của sự dụng công cố ý.... không có nghệ thuật nào mà chẳng có dụng ý ”.
                                                        (Osacar Wilde, 1854 – 1900, Ai Nhĩ Lan)
          Vượt qua bom đạn, qua thử thách khó khăn, tình cảm đồng chí đồng đội càng keo sơn gắn bó:
                              Những chiếc xe từ trong bom rơi
                              Đã về đây họp thành đồng đội.
                              Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới   
                              Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

          Hình ảnh “ Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi ” thật độc đáo, giàu ý nghĩa và ta nhớ tới hình ảnh “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ” của người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp qua bài thơ “ Đồng chí ” của Chính Hữu. Tình cảm đồng chí đồng đội keo sơn, gắn bó là một trong những phẩm chất tốt đẹp của các anh “ Bộ đội cụ Hồ ”.
          Nổi bật trong “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” là hình ảnh người lính lái xe dũng cảm, hiên ngang, trẻ trung, tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng.
          Sức nặng của bài thơ, tư tưởng chủ đề của bài được thể hiện tập trung ở bốn câu thơ kết:
                              Không có kính, rồi xe không có đèn,
                             Không có mui xe, thùng xe có xước,
                                    Xe vẫn chạy vì  miền Nam phía trước:
                             Chỉ cần trong xe có một trái tim.

          “ Trái tim ” ở đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước. “ Những con đường chạy thẳng vào tim ” đang được trái tim cầm lái.
          Bài thơ viết về xe không kính nhưng ý tưởng sâu xa của bài thơ là ở chỗ: qua những chiếc xe đó, tác giả muốn nói với chúng ta về đất nước và con người Việt Nam thời chống Mỹ. Về vật chất, đất nước chúng ta có thể thiếu nhiều thứ, nhưng có một thứ không thể thiếu được, đó là trái tim, là ngọn lửa nhiệt tình yêu nước.

          Sức hấp dẫn, sự độc đáo của Bài thơ về tiểu đội xe không kính được thể hiện ở chất giọng trẻ trung, khỏe khoắn, tinh nghịch, tự nhiên, giàu âm thanh nhạc điệu. Bài thơ giàu chất hiện thực, lãng mạn và nhiều suy tưởng. Hình ảnh người lái xe trong bài thơ đã trở thành biểu tượng đẹp về người lính Trường Sơn trên “ Đường Hồ Chí Minh ” trong những năm kháng chiến chống Mỹ gian khổ, hào hùng của dân tộc. Một thời chiến tranh, một thời đạn bom, một thời Trường Sơn – Một thời để nhớ.
          Với “ Vầng trăng - quầng lửa ( 1970 ), “Thơ một chặng đường” (1971)…Phạm Tiến Duật trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu, xuất sắc của nền thơ ca chống Mỹ.

20- Quang Dũng
         
                   TÂY TIẾN

                             Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
                             Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
          Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
         
                                      Phù Lưu Chanh - 1948

Lời bình

Bài thơ “ Tây Tiến ” gợi cho ta hình ảnh đoàn quân thời ấy và những nẻo đường họ đã đi qua: đường số 6, Hoà Bình, Suối Rút rồi tiến về phía Tây… Những câu thơ giàu chất tạo hình như một bức tranh vẽ chặng đường hành quân đầy khó khăn, gian khổ:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ”.
Hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở, hoang vu và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng.
Nhiều câu thơ mà những năm trước đây bị coi là sự biểu hiện của những “mộng rớt, buồn rớt ”, là sự phản ánh sai lệch, “ chinh phu hoá ” hình ảnh người chiến sĩ mới … lại là những câu thơ thật xúc động, diễn tả rất thực, thực đến mức trần trụi cái khắc nghiệt của thực tế chiến đấu bấy giờ:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm … ”
Nhà thơ đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thẫm đẫm tinh thần bi tráng.
Tây Tiến ” là cuộc sống, là tấc lòng, là cảm xúc rất thật của Quang Dũng. Cùng với cảm xúc chân thực và mãnh liệt, thơ ông có họa, có nhạc, có sự dữ dội và tươi mát, hào hùng mà không ồn ào, đau thương mà không bi lụy.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đề tài: Thế giới nghệ thuật đồng dao

MẪU THƯ GIỚI THIỆU ĐI HỌC NGHIÊN CỨU SINH!

Những thuận lợi và khó khăn trong dạy học Địa lý THCS ở miền núi.