100 bài thơ hay nhất thế kỉ XX và lời bình (phần 2)
11- Hoàng Cầm
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Anh đưa em về sông
Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ
tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm
nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét
tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên
giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng
khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa
hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng
bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay
người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết
trầu
Những cụ già phơ phơ tóc
trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp
sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợi Sủi, người đua
chen
Bãi Trầm Chỉ, người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua, còm cõi gánh
hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen
sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng
trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán
gày teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều
mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng
rong
Bước cao thấp bên bờ tre
hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống
về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái
đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát
cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường
tránh đạn
Lấy mẹt
quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây, tiếng
súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giầy vò những nét
môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi
hờn
Đêm buông xuống dòng sông
Đuống
- Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây, bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe, giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân
cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ, võng
đưa rầu rầu:
- “ À … ơi ! Cha con chết
trận từ lâu
Con
càng khôn lớn càng sâu mối thù ”
Tiếng
em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét, mịt mù mưa
bay:
“ Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài
lâu … ”
Em ơi ! đừng hát nữa, lòng
anh đau,
Mẹ ơi ! đừng khóc nữa, dạ
con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm trong tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa
cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời …
Bây giờ về bên kia sông
Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng
xuân xanh.
Việt Bắc – tháng 4 năm
1948
Lời bình:
Tình yêu quê hương đất nước, tình yêu
nhân dân đằm thắm, thiết tha là cảm hứng bao trùm của bài thơ “ Bên kia sông
Đuống ”.
Giá trị
thẩm mỹ đặc sắc nhất của bài thơ chủ yếu tập trung ở đoạn một và phần một của
đoạn hai. Tuy nói về một vùng đất cụ thể ( xứ Kinh Bắc ) nhưng Hoàng Cầm gợi
lên được trong lòng người đọc tình cảm sâu lắng đối với mọi làng quê Việt Nam.
Ba câu thơ hay nhất trong bài, có sức ám
ảnh lay động tâm hồn người đọc:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kỳ
“ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ ” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, đầy ấn tượng. Cái dáng
nằm “ nghiêng nghiêng ” đã tượng hình lên con sông Đuống, làm cho nó hiện ra
như một sinh thể sống động.
12- Hoàng Nhuận Cầm
ANH BỘ ĐỘI VÀ TIẾNG NHẠC LA
Anh bộ đội xắn quần đi trong mưa
Bầy
la theo rừng già, rừng thưa
Rừng đâu chỉ có giọng chim
lạ
Còn có tiếng nhạc trên cổ
la.
Những cây nấm nâu, màu nâu
già,
Tự dưng thức dậy bên vòm lá
Những bông hoa chưa có tên
hoa
Bỗng nhiên mở cánh ra nghe
ngóng.
Tiếng nhạc trên cổ la rung
rung
Đã sáu năm là bài hát của
rừng,
Có những con đường hoang
dại lắm
Chỉ in chân la và chân anh.
Những con đường xa, con
đường xanh
Sáng lên viên đạn vàng căm
giận,
Cần mẫn bầy la đi ra trận
Bao gùi hàng hồi hộp trên
lưng …
Lời bình:
Năm 1971, Hoàng Nhuận Cầm nhập ngũ vào binh chủng phòng
không - không quân, đã chiến đấu tại các mặt trận Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên - Huế .
Bài thơ không viết về những cuộc chiến đấu ác liệt mà viết
về vẻ đẹp bình dị, lãng mạn của anh bộ đội vận tải đối với đàn la gùi hàng, cần
mẫn đi ra mặt trận.
Bài thơ “ Anh bộ đội và tiếng nhạc la ” đậm đà
chất lãng mạn của một tâm hồn thi sĩ - chiến sĩ, của người lính trẻ vừa mới dời
ghế nhà trường bước vào quân ngũ.
13- Phạm Ngọc Cảnh
SƯ ĐOÀN
Sẽ có những sư đoàn thép
Bất kỳ nơi đâu
Không khuất phục tù đầy
chém giết
Nơi đâu
Người sống nợ nần người đã
chết
Bất kỳ nơi đâu, từ một cây
“ mút nhét ”
Một sải xuồng bơi
Một nọc ong châm góp làm
làm sự nghiệp
Gốc tre xanh thắng trận cả
ba đời
Ba mươi triệu tấm lòng xông
ra tuyến lửa.
Vạch lối điều quân
Vai đẩy xe thồ
Trồng cây xanh che chở
Mỗi bước quân đi
Đánh trận trường kỳ
Đêm trước nấp trong lùm bắn
tỉa
Sớm sau dàn trận chính quy
Đến trận bão hiệp đồng cả
nước
Mỗi sư đoàn mang gió lốc
bay đi …
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ – sư
đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên, vòng đai
thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt
đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân …
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân
đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu
giặc Pháp
Bài học chiến tranh nhân
dân
Lại tiếp
Trang Ấp Bắc, Plây Me…
Đất nước sẽ cho ta
Những chùm con số đẹp
Làm tên gọi khai sinh sư
đoàn thép
Này đây
Doi cát Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông, bẫy đá, cung
tên
Này đây Cực Nam, Phan Rang,
Phan Thiết
Này đây Quảng Ngãi, Phú
Yên…
Trên nguồn xa Ô Lâu, Thạch
Hãn
Sẽ tiến về
Sư đoàn Trị Thiên
Lại có một ngày
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn
hở
Như Hà Nội đã từng
Ba mươi sáu đường hoa tung
sóng đỏ
Phất rừng cờ thổi hồng ngọn
gió
Đón con em
Đón những sư đoàn
Mang chiến thắng trở về
Rập bước
Ca vang.
Lời bình:
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía Bắc
Tràn về hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân
đi đánh giặc.
Đọc những câu thơ này tôi lại nhớ đến một
đoạn thơ hùng tráng trong bài thơ “ Việt Bắc ” của nhà thơ Tố Hữu:
14- Huy Cận
TRÀNG GIANG
Lời bình:
Không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà ”.
Câu thơ Thôi Hiệu trong “
Hoàng Hạc Lâu ”: “ Yên ba giang thượng sử nhân sầu ” ( Tản Đà) dịch : “ Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai ” ). Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà - Nhà
thơ mới, không thấy khói sóng cũng nhớ nhà. Như thế là nỗi nhớ nhà của cái tôi
lãng mạn còn da diết hơn nữa. Và có lẽ chỉ đến “ Thơ mới ” thì nỗi buồn nhớ quê
hương mới có được cái cảm giác “ dờn dợn ” như thế.
Có thể nói, tình yêu quê
hương đất nước là nội dung cảm động nhất của bài thơ này.
CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY
PHƯƠNG
Tôi đến thăm về
lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ
Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau
thương ?
Đây vị xương trần chân với
tay
Có chi thiêu đốt tấm thân
gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm
mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu
xệch
Trán như nổi sóng biển luân
hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn
héo
Gân vặn bàn tay mạch máu
sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai
non
Nhưng đôi tai rộng dài
ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện
buồn …
Các vị ngồi đây trong lặng
yên
Mà nghe giông bão nổ trăm
miền
Như từ vực thẳm đời nhân
loại
Bóng tối đùn ra trận gió
đen.
Mỗi người một vẻ, mặt con
người
Cuồn cuộn đau thương cháy
dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật
vã
Tương không khóc cũng đổ mồ
hôi.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt
ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi
trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời
đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn
chau.
Có thực trên đường tu đến
Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần
chót
Các vị đau theo lòng chúng
nhân?
Nào đâu, bác thợ cả xưa
đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một
câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khổ
hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể
cho nhau?
Hay bấy nhiêu hồn trong gió
bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu
đời
Là cha ông đó bằng xương
máu
Đã khổ, không yên cả đứng
ngồi.
Cha ông năm tháng đè lưng
nặng
Những bạn đương thời của
Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ
trán
Đau đời có cứu được đời
đâu.
Đứt ruột cha ông trong cái
thuở
Cuộc sống giậm chân hoài
một chỗ
Bao nhiêu hy vọng thúc bên
sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh
dương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt
tượng
Nửa như khói ám, nửa sương
tà.
Các vị La Hán chùa Tây
Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìm mặt tượng dường
tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản
khói sương
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng
hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ
gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường
xuân.
27-12-1966
Lời bình:
Từ trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đã
có dịp đến thăm chùa Tây Phương và sau đó còn nhiều lần trở lại. Cuối năm 1960,
ông viết bài thơ “ Các vị La Hán chùa Tây Phương ” .
Được
khơi gợi cảm hứng từ những pho tượng La Hán, nhưng bài thơ của Huy Cận không
phải là tác phẩm bàn luận về Phật giáo mà chỉ là sự thể hiện một cách cảm nhận
và suy ngẫm về quá khứ lịch sử của dân tộc.
Đoạn đầu ( 8 khổ thơ đầu ) là đoạn thơ
hay nhất. Nhà thơ đã đặc tả từng gương mặt, hình hài, dáng dấp của các vị La
Hán bằng nhiều ngôn từ giàu chất tạo hình. Ông như tạc vào lòng người đọc những
đau đớn, vật vã, quằn quại, chua xót… những khổ đau về vật chất và tinh thần
rất trần thế:
Có vị mắt giương, mày nhíu
xệch
Trán như nổi sóng biển luân
hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn
héo
Gân vặn bàn tay mạch máu
sôi.
Ông trân trọng trước những nghĩ suy,
những đau đời của người xưa nhưng cũng rất xót xa cho sự bất lực ấy. Càng trăn
trở, lại càng rơi vào bế tắc.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt
ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi
trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời
đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Chế Lan Viên trong bài “ Tổ quốc bao
giờ đẹp thế này chăng chăng ” cũng nói đến một ý tương tự:
“ Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa
cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá
Những pho tượng chùa Tây Phương không
biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi … ”
Phần sau của bài mang yếu tố chính luận.
Nhà thơ muốn gửi gắm vào đấy những triết lý về nhân sinh và vũ trụ, muốn khẳng
định, chỉ có thời đại mới, với bản chất nhân đạo của nó và bằng thực tế đấu tranh
của những thế hệ hậu sinh mới có thể tìm được lời giải cho những câu hỏi đau
đời.
Huy Cận còn có những bài thơ khác có thể
chọn là những bài thơ hay của thế kỷ XX như: Đi giữa đường thơm, Thu rừng,
Đoàn thuyền đánh cá, Trò chuyện với Kim Tự Tháp, Ngã ba Đồng Lộc …
15- Nông Quốc Chấn
DỌN VỀ LÀNG
Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn
giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống
hàng đàn.
Vệ quốc quân chiếm lại các
đồn
Người đông như kiến, súng
đầy như củi.
Sáng mai về làng sửa nhà
phát cỏ
Phát ruộng nương rào vườn
tược làm ăn.
Mấy năm qua quên tết tháng
giêng, quên rằm tháng bảy.
Chạy hết núi khe, cay dắng
đủ mùi,
Nhớ một hôm mịt mù mưa rơi,
Cơn gió bão trên rừng cây
đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống
nát cửa.
Đường đi lại vắt bám đầy
chân.
Súng nổ kìa! Giặc Tây lại
đến làng
Từng cái lán, nó đốt đi trơ
trụi,
Nó vét hết áo quần trong
túi,
Mẹ đìu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy con
sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đầy tay
nải,
Bà bị loà mắt không biết
lối bước đi.
Làm sao bây giờ? Ta phải
chống,
Nó đã bắt cha con đi, nó
đánh.
Cha chửi Việt gian, cha
đánh lại Tây
Súng liền nổ ngay cùng một
loạt
Cha ngã xuống nằm trên mặt
đất
Cha ơi! cha không biết nói
rồi …
Chúng con còn thơ, ai dạy
nuôi?
Không ai chống gậy khi bà
cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc con cúi đầu
cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “ nín ”
con im
Lán anh em rải rác không
biết nơi tìm
Không ván, không người đưa
cha đi chôn cất,
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho
chồng,
Con cởi áo liệm thân cho
bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân
rừng
Máu đầy tay, nước tràn đầy
mặt…
Mày sẽ chết! Thằng giặc
Pháp hung tàn,
Băm xương thịt mày, tao mới
hả!
Hôm nay Cao – Bắc – Lạng
cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người
xuống làng,
Người nói cỏ lay trong rừng
rậm,
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên
con.
Đường cái kêu vang tiếng ô
tô
Trong trường ríu rít tiếng
cười con trẻ,
Mờ mờ khói bếp bay trên mái
nhà lá
Từ nay không ngập cỏ lối đi
Hổ không dám đến đẻ con
trong vườn chuối
Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng
Ruộng sẽ không thành nơi
máu chảy từng vũng
Bộ đội đỡ phải đi thung
lũng núi rừng
Ra đường xe, hát nói ung
dung
Từng đoàn người dắt lá cây
tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc
bên vai,
Chân đi cỏ giầy không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng
mưa.
Mặt trời lên ! Sáng rõ rồi
mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại
nhà,
Giặc Pháp, Mỹ còn giết
người cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi con sẽ về
trông mẹ.
Mùa đông 1950
Lời bình:
Nông Quốc Chấn là nhà thơ dân tộc Tày, trưởng
thành trong thời kù kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “ Dọn về làng ” được
sáng tác vào năm 1950, khi quân dân ta chiến thắng thực dân Pháp, giải phóng
Cao - Bắc - Lạng.
Bài thơ đã phản ánh không khí vui tươi,
phấn khởi, niềm vui say chiến thắng của nhân dân miền núi cũng như lòng căm thù
của họ đối với bọn thực dân Pháp và tay sai; đồng thời bài thơ thể hiện ý chí,
quyết tâm chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thơ Nông Quốc Chấn nói chung, bài thơ “ Dọn
về làng ” nói riêng mang đậm phong cách thơ miền núi với hai đặc điểm lớn:
Có nhiều chi tiết, hình ảnh chân thực của đời sống và lối cảm nghĩ bằng những hình
ảnh cụ thể của đời sống.
16- Đoàn Văn Cừ
CHỢ TẾT
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sông hồng lam ôm ấp
nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng
mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra
chợ tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ
biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy
lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước
lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười
lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm
mẹ,
Hai người thôn gánh lợn
chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi
theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như
giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài
trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo
the xanh
Đồi thoa xanh nằm dưới ánh
bình minh.
Người mua bán ra vào đầy
cổng chợ
Con trâu đứng vờ dim hai
mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách
nói bô bô
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy
đôi bồ
Tìm đến chỗ đông người ngồi
giở bán
Một thầy khoá gò lưng bên
cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết
thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu
cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu
đối đỏ
Bà cụ lão bán hàng bên miếu
cổ
Nước thời gian gội tóc
trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên
mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn
kéo
Khăn trên đầu đang chít
cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức
tranh gà
Quên cả chị bên đường đang
đứng gọi
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ
rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo
dưới cây đa
Những mẹt cam đỏ chói tựa
son pha,
Tháng gạo nếp đong đầy như
núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như
cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc
lên xem
Chợ tưng bừng như thế tới
gần đêm
Khi chuông tối bên chùa
văng vẳng đánh
Trên con đường đi các làng
hẻo lánh
Những người quen lũ lượt
trở ra về
Ánh dương vàng trên cỏ kéo
lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh
quán chợ.
1939
Lời bình:
Nhà phê bình văn học Hoài
Thanh trong tập sách nổi tiếng “ Thi nhân Việt Nam ” đã nhận xét: “ Trong
các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ
”. Nhận xét này đã được thể hiện cụ thể, sinh động qua bài thơ “ Chợ Tết ” của ông.
Bài thơ được sáng tác năm
1939. Bài thơ hay, độc đáo vì đã miêu tả chân thật, sinh động những nét tiêu
biểu trong sinh hoạt của làng quê. Với cái nhìn hóm hỉnh, nhiều chi tiết điển
hình,với sự mẫu mực của văn miêu tả, có những câu thơ có sức khái quát, có kí
ức tâm trạng… Đoàn Văn Cừ đã làm mới lại, làm lạ hoá một khung cảnh quen thuộc
từ bao đời, giữ lại mãi mãi cho mai sau cái phong vị dân dã xóm làng cùng những
nét sinh hoạt đặc sắc của một thời.
17- Lâm Thị Mỹ Dạ
KHOẢNG
TRỜI - HỐ BOM
Để cứu con đường
đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc
của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù, hứng
lấy luồng bom…
Đơn vị tôi hành quân qua
con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện
người con gái
Một nấm mồ, nắng ngời bao
sắc đá,
Tình yêu thương bồi đắp cao
lên…
Tôi nhìn xuống hố bom đã
giết em
Mưa đọng lại một khoảng
trời nho nhỏ
Đất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết
thương đau.
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên
trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói,
lung linh.
Có phải thịt da em mềm mại,
trắng trong
Đã hoá thành những vầng mây
trắng
Và ban ngày khoảng trời
ngập nắng
Đi qua khoảng trời em -
Vầng dương thao thức
Hỡi mặt trời, hay chính
trái tim em trong ngực
Soi cho tôi
Ngày hôm nay bước tiếp
quãng đường dài ?
Tên con đường là tên em gửi
lại
Cái chết em xanh khoảng
trời con gái
Tôi soi lòng mình trong
cuộc sống của em.
Gương mặt em, bạn bè tôi không biết
Nên mỗi người có gương mặt
em riêng.
10-1972
Lời bình:
Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ nữ
khá nổi tiếng, xuất hiện trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Bài thơ “ Khoảng trời - hố bom ” ở trong chùm thơ của tác giả được tặng
giải Nhất cuộc thơ thi báo Văn nghệ năm 1972-1973.
Bài thơ là lời tưởng niệm đầy
xúc động về sự hy sinh của người nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn những năm chiến tranh chống Mĩ.
Sự hy sinh cao cả của cô gái đã được nhà
thơ cảm nhận như là sự hoá thân vào quê hương, đất nước, trong sự vĩnh hằng của
thiên nhiên và trong cuộc đời những người đang sống.
Các hình ảnh của bài thơ được xây dựng
theo mối liên tưởng về sự chuyển hoá, hoá thân của sự sống con người vào trong
thế giới thiên nhiên, gợi ra sự hài hoà và ý niệm về sự bất tử ( tâm hồn -
vì sao, thịt dạ - vầng mây, mặt trời - trái tim).Trong cái nhìn thấm đầy
cảm xúc, mọi sự vật hình ảnh của thiên nhiên đều chứa chất sự sống con người,
trở nên sâu thẳm thiêng liêng và đầy sức ám ảnh:
“ Có phải
thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hoá
thành những vầng mây trắng
Và ban
ngày khoảng trời ngập nắng
Đi qua
khoảng trời em - Vầng dương thao thức
Hỡi mặt
trời, hay chính trái tim em trong ngực
Soi cho
tôi
Ngày hôm
nay bước tiếp quãng đường dài ? ”.
18- Xuân Diệu
ĐÂY MÙA THU TỚI
Tóc buồn buông xuống lệ
ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu
tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng
cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu
xanh
Những luồng run rẩy rung
rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương
mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự
ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương
mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong
gió…
Đã vắng người sang những
chuyến đò…
Mây vẩn từng không, chim
bay đi.
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn
không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi
gì.
Lời bình:
Bài thơ “ Đây mùa thu tới
” không ra đời trong một khoảnh khắc đối cảnh sinh tình, mà là một cảm nhận
tổng hợp về một cuộc chuyển mùa. Ở đây tác giả nhận ra mùa thu đến với nhiều
khung cảnh và trong nhiều thời điểm khác nhau: một hàng liễu bên hồ, một cảnh
vườn tược lá rụng hoa tàn, một vầng trăng thu ngẩn ngơ, một bến đò vắng, một
cảnh phố xá đìu hiu có những cô gái tựa cửa bâng khuâng…
Cảm giác chung của bài thơ là
buồn. Khác với mùa thu trong thơ của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến, Tản Đà … cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới và riêng. Đó là chất trẻ
trung, tươi mới được phát hiện qua con mắt “ xanh non ” của tác giả, là
sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xôn xao trong cảnh vật, là cảm giác cô đơn “ run
rẩy ” của cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khát khao giao cảm với đời.
Trong tập “ Trường ca ”, Xuân Diệu từng viết: “ Trời
muốn lạnh nên người ta cần nhau hơn. Và người nào chỉ có một thân thì cần một
người khác… Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà rất cần đôi; cho nên không gian
đầy những lời nhớ nhung, những hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi
nhau ”.
Đó phải chăng cũng là tâm
trạng của tác giả “ Đây mùa thu tới ” và của những nàng thiếu nữ trong
bài thơ này chăng ?
Một số bài thơ khác của Xuân
Diệu cũng có thể được xếp là những bài thơ hay của thế kỷ XX như: Nguyệt
Cầm, Lời kỹ nữ, Thơ duyên, Vội vàng, Biển, Quả sấu non trên cao…
BIỂN
Lời bình:
19- Phạm Tiến Duật
LỬA ĐÈN
Anh cùng em sang
bên kia cầu
Nơi có những miền
quê yên ả
Nơi có những ngọn
đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn hiệu
Trỏ lối sang mùa hè,
Quả cà chua như cái đèn
lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm
thâu,
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức
nóng …
Mạch đất ta dồi dào sức
sống
Nên nhành cây cũng thắp
sáng quê hương.
Chúng nó đến từ bên kia
biển
Rủ nhau ra như lũ ma trơi
Từ trên trời bảy trăm mét
Nhìn thấy lửa que diêm sáng
mặt người,
Một nghìn mét từ trên trời
Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ
bé
Tám nghìn mét
Thấy ánh lửa đèn hàn chớp
loé
Mà có cần đâu khoảng cách
thấp cao
Chúng lao xuống nơi nao
loè ánh lửa,
gió thổi tắt đèn, bom rơi
máu ứa.
Trên đất nước đêm đêm
sáng những ngọn đèn
Mang lửa từ nghìn năm về
trước,
lấy từ thuở hoang sơ,
Giữ qua đời này đời khác
Vùi trong tro trong trấu
nhà ta
Ôi ! Ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy
Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta
đấy.
II- Tắt lửa
Anh cùng em sang bên kia
cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi tắt lửa đêm đêm khiến
đất trời rộng quá
Không nhìn thấy gì đâu
Bóng tối che rồi
Cây trúc làm duyên phải nhờ
gió thổi
Cô gái làm duyên phải dùng
giọng nói,
Bông hoa làm duyên phải luỵ
hương bay …
Bóng tối phủ dày
Che mắt địch.
Nơi tắt lửa là nơi vang rền
xe xích
Kéo pháo lên trận địa đồng
cao
Tiếng khẩu đội trưởng ở đâu
Đấy là đuôi khẩu pháo
Tiếng anh đo xạ điểm đều
nhịp chày giã gạo
Vang ở đâu, đấy là giữa
trận đồ
Nơi tắt lửa là nơi in vết
bánh ô tô
Những đoàn xe đi như không
bao giờ hết,
Chiếc sau nối chiếc trước ì
ầm
Như đàn trẻ con chơi u chơi
âm
Đứa này nối hơi đứa khác.
Nơi tắt lửa là nơi dài
tiếng hát
Đoàn thanh niên xung phong
phá đá sửa đường
Dẫu hố bom kề bên còn bay
mùi khét
Tóc lá sả đâu đó vẫn bay
hương
Đêm tắt lửa trên đường
Khi nghe gần xa tiếng bước
chân rậm rịch
là tiếng những đoàn quân
xung kích
Đi qua.
Từ trong hốc mắt quầng đen
bóng tối tràn ra
Từ dưới đáy hố bom sâu hun
hút
Bóng tối dâng đầy toả ngợp
bao la,
Thành những màn đen che
những bào thai chiến dịch
Bóng đêm ở Việt Nam
Là khoảng tối giữa hai màn
kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn
lao.
Bóng đêm che rồi không nhìn
thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm
thanh mới lạ.
III- Thắp đèn
Anh cùng em sang bên kia
cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi đêm ngày giặc điên
cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp
lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm,
Chiếc đèn chui vào lòng
trái núi
Cho xưởng máy thay ca vồi
vội
Chiếc đèn chui vào chiếu
vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc
những lá thư thăm…
Ta thắp đèn lên trên đỉnh
núi
Gọi quân thù đem bom đến
giội
Cho đá lở đá lăn
Lấy đá kè cầu, lấy đá sửa
đường tàu
Ta bật đèn pha ô tô trong
chớp loè ánh đạn
Rồi tắt đèn quay xe
Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại
lái xe đi…
Ngày mai, ngày mai hoàn
toàn chiến thắng
Anh dắt tay em, trời chi
chít sao giăng
“ Thắp đèn ta sẽ chơi trăng
ngoài thềm ”
Ta thắp đèn lồng, thắp cả
đèn sao năm cánh
Ta dẫn nhau lên ngôi nhà
đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng
mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân
thật đẹp
Mang hình những người những
cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân
nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt
ngọn đèn xoay.
Lời bình:
Cùng với các nhà thơ: Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Xuân
Quỳnh, Bằng Việt, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa…, Phạm Tiến Duật là
một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ cứu nước.
Với chùm thơ 4 bài: Nhớ,
Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong, Bài thơ về tiểu đội xe không kính,
tác giả đã đạt giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ 1969-1970.
Bài thơ “ Lửa đèn ”
được sáng tác năm 1967 đã thể hiện rõ phong cách thơ của Phạm Tiến Duật như
Sách giáo khoa “ Ngữ văn 12 ” đã nhận định:
“ Thơ ông có khuynh hướng chủ yếu tìm cảm hứng từ trong các
diễn biến sôi động của cuộc sống. Phạm Tiến Duật sử dụng linh hoạt câu thơ văn
xuôi trong nhiều bài. Ông đã đem vào cho thơ một giọng điệu lạ, vừa trang
nghiêm lại vừa có chút đùa nghịch, vừa lắng sâu trách nhiệm lại vừa thanh thản tươi vui ”.
( Ngữ văn
12, Tập một - SGK thí điểm,
Ban khoa
học xã hội và nhân văn, bộ 2.
NXB Giáo
dục, Hà Nội - 2005, tr 247 )
Lửa đèn; Gửi em cô thanh
niên xung phong; Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Áo của hôm nào người của hôm
nay … là những bài thơ
hay của thế kỷ XX.
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG
KÍNH
Không có kính không
phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ
đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt
đắng
Nhìn thấy con đường chạy
thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột
cánh chim
Nhìn sa, như ùa vào buồng
lái.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như
người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm
điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài
trời
Chưa cần thay, lái trăm cây
số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau
thôi.
Những chiếc xe từ trong bom
rơi
Đã về đây họp thành tiểu
đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường
đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ
rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa
trời
Chung bát đũa nghĩa là gia
đình đấy
Võng mắc chông chênh đường
xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh
thêm.
Không có kính, rồi xe không
có đèn,
Không có mui xe, thùng xe
có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một
trái tim.
1969
Lời bình
Thơ ca từ Cách mạng tháng Tám đến nay có
nhiều bài thơ hay viết về người lính - “ Anh bộ đội Cụ Hồ ” trong hai cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại: Nhớ - Hồng Nguyên, Đồng chí - Chính
Hữu, Tây Tiến - Quang Dũng, Hoan hô chiến sỹ Điện Biên -
Tố Hữu, Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu, Tiểu đội xe không
kính - Phạm Tiến Duật, Năm anh em trên một chiếc xe tăng - Hữu Thỉnh,
Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân ... trong đó “ Bài thơ về tiểu
đội xe không kính “ của Phạm Tiến Duật, sáng tác năm 1969 là một bài
thơ hay, độc đáo, mới lạ và hấp dẫn.
Nhiều
nhà thơ và nhà phê bình nghiên cứu văn học nhất trí vơi nhau về các mốc đầu
tiên của thơ chống Mỹ và coi Phạm Tiến Duật là người mở đầu cho giai đoạn. Nhà
thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét; “ Anh Duật có thể coi là lứa đầu của lớp nhà
thơ xuất thân trong kháng chiến chống Mỹ. Phải đến Phạm Tiến Duật, thơ lớp trẻ
mới thực sự vào trận. Trước đó, mới chỉ là người đưa tiễn, người cắm lá ngụy
trang cho trận địa”.
Là người trong cuộc, gắn bó máu thịt với
Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã có nhiều bài thơ hay viết về vùng đất này, về
đường Trường Sơn –“Đường Hồ Chí Minh” nổi tiếng trong lịch sử.
Với chùm thơ bốn bài: Nhớ, Lửa đèn,
Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, Phạm Tiến
Duật đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ do “Báo Văn nghệ” tổ chức năm 1969 - 1970.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là
sản phẩm của những năm tháng gian khổ mà hào hùng của người lính lái xe
Trường Sơn.
Tứ thơ được hình thành từ một hình
tượng, một chi tiết độc đáo - những chiếc xe không kính chắn gió vẵn băng băng
trên đường ra trận:
Không có kính không
phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung
kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta
ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời,
nhìn thẳng.
Lời
thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường hàng
ngày. Điều đó cũng được thể hiện trong nhiều bài thơ khác của anh. Đó là một
nét độc đáo trong phong cách thơ của thi sĩ – chiến sĩ này.
Cái gian khổ hiểm nguy: Bom giật làm
vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó là chuyện bình
thường với người lính lái xe trong thời chiến. Tác giả đã miêu tả sinh động sự
khắc nghiệt của chiến tranh, những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải
qua: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”, Xe không có kính nên “gió vào xoa mắt
đắng”, “bụi phun tóc trắng như người già”, ướt áo vì “mưa xối như ngoài trời”.
Những người lính chấp nhận gian khổ,
coi thường hiểm nguy, ung dung, hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng yêu của
lính lái xe. Mặt đầy cát bụi nhưng:
Chưa cần rửa, phì
phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười
ha ha.
Cái dáng “phì phèo châm điếu thuốc” và
tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật tư thế hiên ngang, tâm
hồn lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong những năm tháng chiến tranh ác
liệt.
Mưa to, áo quần ướt sũng nhưng:
Chưa cần thay,
lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa
khô mau thôi.
Cái hay, vẻ đẹp của bài thơ còn thể
hiện ở sự hồn nhiên, giàu chất hiện thực và lãng mạn, gợi ta nhớ đến một ý kiến
sâu sắc: “ Tác phẩm nào đối với ta có vẻ hồn nhiên và như sản phẩm tự nhiên
của thời đại, bao giờ cũng là kết quả của sự dụng công cố ý.... không có nghệ
thuật nào mà chẳng có dụng ý ”.
(Osacar
Wilde, 1854 – 1900, Ai Nhĩ Lan)
Vượt qua bom đạn, qua thử thách khó
khăn, tình cảm đồng chí đồng đội càng keo sơn gắn bó:
Những chiếc xe
từ trong bom rơi
Đã về đây họp
thành đồng đội.
Gặp bè bạn suốt
dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua
cửa kính vỡ rồi.
Hình ảnh “ Bắt tay nhau qua cửa kính
vỡ rồi ” thật độc đáo, giàu ý nghĩa và ta nhớ tới hình ảnh “ Thương nhau tay
nắm lấy bàn tay ” của người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp qua bài
thơ “ Đồng chí ” của Chính Hữu. Tình cảm đồng chí đồng đội keo sơn, gắn bó là
một trong những phẩm chất tốt đẹp của các anh “ Bộ đội cụ Hồ ”.
Nổi bật trong “ Bài thơ về tiểu đội xe
không kính ” là hình ảnh người lính lái xe dũng cảm, hiên ngang, trẻ trung,
tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng.
Sức nặng của bài thơ, tư tưởng chủ đề
của bài được thể hiện tập trung ở bốn câu thơ kết:
Không có kính, rồi xe không
có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có
xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái
tim.
“ Trái tim ” ở đây là trái tim yêu
thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến đấu vì sự nghiệp
giải phóng đất nước. “ Những con đường chạy thẳng vào tim ” đang được trái tim
cầm lái.
Bài thơ viết về xe không kính nhưng ý
tưởng sâu xa của bài thơ là ở chỗ: qua những chiếc xe đó, tác giả muốn nói với
chúng ta về đất nước và con người Việt Nam thời chống Mỹ. Về vật chất, đất nước
chúng ta có thể thiếu nhiều thứ, nhưng có một thứ không thể thiếu được, đó là
trái tim, là ngọn lửa nhiệt tình yêu nước.
Sức hấp dẫn, sự độc đáo của Bài
thơ về tiểu đội xe không kính được thể hiện ở chất giọng trẻ trung,
khỏe khoắn, tinh nghịch, tự nhiên, giàu âm thanh nhạc điệu. Bài thơ giàu chất
hiện thực, lãng mạn và nhiều suy tưởng. Hình ảnh người lái xe trong bài thơ đã
trở thành biểu tượng đẹp về người lính Trường Sơn trên “ Đường Hồ Chí
Minh ” trong những năm kháng chiến chống Mỹ gian khổ, hào hùng của dân
tộc. Một thời chiến tranh, một thời đạn bom, một thời Trường Sơn – Một thời để
nhớ.
Với “ Vầng trăng -
quầng lửa ( 1970 ), “Thơ một chặng đường” (1971)…Phạm
Tiến Duật trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu, xuất sắc của nền thơ ca
chống Mỹ.
20- Quang Dũng
TÂY TIẾN
Lời bình
Bài thơ “ Tây Tiến ”
gợi cho ta hình ảnh đoàn quân thời ấy và những nẻo đường họ đã đi qua: đường số
6, Hoà Bình, Suối Rút rồi tiến về phía Tây… Những câu thơ giàu chất tạo hình
như một bức tranh vẽ chặng đường hành quân đầy khó khăn, gian khổ:
Nhận xét
Đăng nhận xét