NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TIẾNG MẸ ĐẺ LÊN NHỮNG BÀI VIẾT CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT CHUYÊN ANH, KHOA NGOẠI NGỮ
1. Mở đầu
Sự chuyển di trong ngôn ngữ (language transfer) là
một đặc điểm quan trọng trong việc tiếp nhận ngôn ngữ thứ hai, và nó góp phần
giải thích một cách thấu đáo cho bất kỳ hiện tượng nào xảy ra trong việc tiếp
nhận ngôn ngữ thứ hai (đặc biệt với quá trình tiếp nhận ngôn ngữ của những người
trưởng thành). Chuyển di ngôn ngữ (language transfer) do T.Odin (1989)
khởi xướng trong công trình cùng tên được
hiểu là ảnh hưởng của những kiến thức mà người học đã tiếp thu
trước đây - về ngôn ngữ và văn hoá mẹ đẻ hoặc về một ngôn ngữ và văn hoá khác,
ngoài ngôn ngữ đích - tác động lên quá trình người học tiếp nhận và sử dụng kiến
thức ngữ dụng về ngôn ngữ đang theo học. Theo định nghĩa này, chuyển di ngữ dụng
tiêu cực (negative transfer) được hiểu là việc áp dụng không thích hợp
những phương tiện, cấu trúc, quy tắc trong tiếng mẹ đẻ vào quá trình học ngoại
ngữ, làm cho việc sử dụng ngôn ngữ đó bị sai lệch khác với chuẩn ngôn ngữ đích
(target norms). Hiện tượng chuyển di này có lí do sâu xa từ sự khác biệt
giữa hai ngôn ngữ. Chuyển di tiêu cực được thể hiện ở mọi cấp độ và bình diện
ngôn ngữ. Chuyển di tiêu cực được các nhà giáo học pháp quan tâm nhiều hơn là
chuyển di tích cực (positive transfer, loại chuyển di sản sinh ra những
phát ngôn gần với ngôn ngữ đích) vì đây mới là loại chuyển di gây ra nhiều vấn
đề nhất đối với việc học ngoại ngữ và giao tiếp với người bản ngữ.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
chỉ ra ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ là một trong các nguyên nhân gây ra lỗi hay sự
chuyển di tiêu cực trong quá trình học ngoại ngữ. Nhiều nghiên cứu về lỗi do
người học ngoại ngữ mắc phải, như Lado (1957), Fries (1965), Ellis (1985) cũng
có cùng quan điểm này. Tuy nhiên những nghiên cứu này hầu như chỉ tập trung chủ
yếu vào việc xác định sự chuyển di hơn là nghiên cứu cụ thể các yếu tố ảnh hưởng
đến sự chuyển di đó cũng như nhận thức của người học về những ảnh hưởng tiêu cực
này. Hơn nữa, thực tế trong quá trình giảng dạy kỹ năng Viết, tác giả nhận thấy
sinh viên, đặc biệt là đối tượng sinh viên năm thứ nhất thường có xu hướng tư
duy và dịch từng từ từng chữ từ tiếng mẹ đẻ sang những bài viết tiếng Anh. Hơn
nữa, các em thường mắc lỗi trong cách sử dụng từ, trật tự từ do có sự khác biệt
giữa hai ngôn ngữ. Do đó, những bài viết của các em thường mang tính chất dịch
thuật từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng Anh, không mang tính chất hàn lâm và gắn với lối
tư duy của người bản địa. Chính vì vậy, sự cần thiết phải có một nghiên cứu để
tìm hiểu, chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ lên những bài viết tiếng
Anh, cũng như nhận thức của chính người học, để giúp cả giáo viên giảng dạy và
sinh viên có thể kiểm soát được những ảnh hưởng tiêu cực và điều chỉnh việc học
tập và giảng dạy hợp lý và hiệu quả hơn.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng: 46 sinh viên năm thứ nhất ở lớp K11 Đại học sư phạm tiếng
Anh. Tất cả đều tham gia học môn Viết 1 – trong học kỳ 1 tại Khoa Ngoại ngữ, Đại
học Hùng Vương. Hầu hết các em chưa từng được tiếp xúc với kỹ năng Viết một
cách bài bản.
- Công cụ nghiên cứu: So sánh đối chiếu (Contrastive Analysis) và Phân tích lỗi
(Error Analysis). So sánh đối chiếu (CA) là cách tiếp cận cơ bản nhất được sử dụng
để phân tích những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Theo Richards and Schmidt (2002),
CA tập trung vào so sánh hai hệ thống ngôn ngữ khác nhau để tìm ra những vấn đề
mà người học ngoại ngữ thường gặp. Vào những năm 1960s, phương pháp Phân tích lỗi
(EA) đã phát triển như một công cụ thay thế So sánh đối chiếu. Phương pháp này
đã chỉ ra rằng: Ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ lên những bài viết của sinh viên phức
tạp hơn nhiều. James (2001) miêu tả phương pháp này như một cách tiếp cận thay
thế được sử dụng để nhận ra những lỗi đã bị phớt lờ bởi sinh viên khi học ngôn
ngữ thứ hai. Jie (2008) cũng ủng hộ tính hiệu quả của phương pháp này trong việc
phân tích lỗi gây ra bởi sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Có thể thấy rằng, phương
pháp này không những hỗ trợ người nghiên cứu nhận ra những ảnh hưởng của tiếng
mẹ đẻ khi học ngôn ngữ thứ hai mà còn giúp người học hiểu ra nguyên nhân mắc lỗi
đó và biết cách sửa chúng.
Ngoài ra, để
tìm hiểu nhận thức của sinh viên về ảnh hýởng của tiếng mẹ ðẻ tới quá trình học
viết tiếng Anh của họ, nhóm nghiên cứu có sử dụng thêm phiếu điều tra bao gồm 6
câu hỏi với nội dung bao gồm: nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng của tiếng mẹ
đẻ, tìm hiểu nguyên nhân và giải pháp. Phiếu này được phát cho các em sinh viên
trước khi bắt đầu khóa học.
- Cách thức thu thập
dữ liệu: 3 thể loại bài viết được
lựa chọn: Viết thư cho bạn, Miêu tả người, và Viết bài trần thuật (kể về một sự
kiện đáng nhớ trong cuộc đời). Đây là một trong những bài thể hiện sự tổng hợp
kiến thức và kỹ năng sinh viên đã được luyện tập và là những chủ đề khá quen
thuộc trong cuộc sống hàng ngày, do đó sinh viên có thể viết với sự yêu thích,
và những tình cảm, suy nghĩ thật của mình với độ dài là từ 120 – 150 từ. Sau
đó, giáo viên sẽ thu lại những bài viết này, thống kê lỗi sinh viên mắc phải và
phân tích.
- Phân tích và xử lý số
liệu: 138 bài viết đã được
thu thập và phân tích để tìm ra lỗi sử dụng phương pháp phân tích lỗi và tất cả
những lỗi này sẽ được xác nhận lại qua 3 chuyên gia ngôn ngữ, đã từng dạy Viết
tại các trường Đại học ở Việt Nam trong ít nhất là 10 năm, để có thể nhận diện
chính xác những lỗi thực sự của sinh viên Việt nam khi viết. Thống kê miêu tả
được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: tính tần xuất mắc lỗi và số lượng phần
trăm. Thêm vào đó, nhóm nghiên cứu cũng thống kê, phân tích cụ thể bảng câu hỏi
điều tra để làm rõ thêm nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng này.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Sự ảnh hưởng tiêu cực cuả tiếng Việt được thể hiện
qua những lỗi sai sinh viên
Qua phân tích, tác giả đã thống kê
được 1017 lỗi ở loại bài trần thuật, 987 lỗi ở loại bài miêu tả và 983 lỗi ở loại
bài viết thư, trong đó đã thống kê phân loại và nhận ra 15 lỗi phổ biến nhất
sinh viên thường mắc phải khi học viết tiếng Anh do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ.
Đó là: Cách sử dụng các thì, Cách dùng từ, Diễn đạt ý, Mạo từ, Giới từ, Trật tự
từ, Số của danh từ, Câu gãy, Thể của động từ, Thiếu động từ be, Động từ nguyên
thể/ Danh động từ, Liên kết văn bản, Sự hòa hợp giữa chủ ngữ - động từ, Dấu
câu, Văn phong học thuật. Các lỗi đó được phân loại và thảo luận ở ba khía cạnh:
từ vựng, cú pháp và văn bản.
3.1.1.
Khía cạnh từ vựng (Lexis level)
Những lỗi điển hình có thể thấy trong 138 bài viết thuộc
khía cạnh từ vựng bao gồm: số của danh từ, cách lựa chọn từ không chính xác.
- Số của danh từ: Sinh
viên thường mắc lỗi thêm s/es để biểu hiện nghĩa số nhiều của những danh
từ đếm được, trong khi những danh từ này không có dạng thức số nhiều trong tiếng
Anh. Do đó, sinh viên cứ thấy “Các/ những” trong tiếng Việt là thêm s/es
vào mặc dù không phải lúc nào cũng có sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ.
-
Cách lựa chọn từ không chính xác: Tỉ lệ
sinh viên sai về cách kết hợp từ càng lớn đối với các từ ít quen thuộc hơn, và
rõ ràng là các em có xu hướng lựa chọn nhưng từ mà khi dịch theo nghĩa tiếng Việt
thấy đúng. Một số ví dụ bao gồm: “Big rain” thay cho “Heavy rain”,
“Wide shoulders” thay cho “Broad shoulders”…Hiện tượng mắc lỗi từ vựng
thứ hai do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ chính là sử dụng thừa từ. Trong tiếng Anh
chỉ cần một từ có thể đủ diễn đạt, nhưng do thói quen dịch từ tiếng Việt sang
nên sinh viên mắc lỗi (Ví dụ: Go to visit somebody; Although S + V, but S +
V, Because S + V, so S + V…)
3.1.2.
Khía cạnh cú pháp (Syntax level)
Sinh viên thường mắc phải các lỗi về
thì của động từ, thiếu động từ tobe, cách sử dụng các giới từ đi kèm, đặc biệt
là các giới từ trong các cụm động từ Phrasal verbs, sự hòa hợp giữa chủ ngữ - động
từ, sử dụng mạo từ, trật tự từ, thể của động từ, dấu câu và cấu trúc ngữ pháp.
-
Thì của động từ: Thì của động từ là hiện tượng
gây khó khăn nhất cho sinh viên nhiều nhất trong loại bài trần thuật, và tương
đối nhiều trong loại bài viết thư.
-
Thiếu động từ “tobe”: Khác với tiếng Anh, trong tiếng
Việt không có động từ “tobe”, do đó khi viết câu, sinh viên cũng thường bỏ luôn
động từ “tobe”. Trong 138 bài viết của sinh viên, có đến khoảng 102 lỗi thiếu động
từ tobe, đa số đây là các động từ tobe được dùng trước tính từ để diễn tả tính
chất của sự vật, sự việc, chính vì vậy lỗi này phổ biến nhất với dạng bài miêu
tả, vì phải sử dụng nhiều đến các tính từ và trạng từ trong câu để diễn đạt.
-
Cách sử dụng giới từ: Một loại lỗi thứ hai thường gặp
đó là sử dụng sai giới từ, do sinh viên bị ảnh hưởng của việc dịch từ nghĩa tiếng
Việt sang nên có sự lựa chọn sai giới từ, ví dụ: On the sky / up the sky;
Provide somebody with something; Discuss about / of the issue; …Điều này có
thể lý giải bởi lẽ thông thường các cụm động từ trong tiếng Anh không có nghĩa,
nhưng khi chúng ta ghép nghĩa của các từ tạo nên mà nó mang nghĩa khác hoàn
toàn.
-
Sự hòa hợp giữa chủ ngữ - động từ: Sự hòa
hợp giữa chủ ngữ - động từ cũng là một khía cạnh gây khó khăn cho nhiều sinh
viên khi học tiếng Anh. Trong tiếng Việt, động từ không bao giờ biến đổi dạng
thức dù chủ ngữ của nó là gì, và động từ ở thì nào. Còn trong tiếng Anh thì chủ
ngữ số ít phải đi với động từ chia ở số ít, và chủ ngữ số nhiều sẽ đi với động
từ ở dạng thức số nhiều. Do đó, sinh viên thường mắc lỗi với hiện tượng này.
- Cách sử dụng mạo từ: Trong
tiếng Việt, không có khái niệm mạo từ, trước các danh từ ta thường gặp những từ
chỉ đơn vị như: chiếc, cái, con, đứa, quả, những, v.v. Trong khi đó,
trong tiếng Anh, chỉ có 3 mạo từ (a/an/the) chia làm hai loại: mạo từ xác định
và mạo từ không xác định với nhiều quy tắc và cách sử dụng, chính vì vậy, sinh
viên thường hay sử dụng sai mạo từ.
- Thể của động từ: Do
ảnh hưởng của tiếng Việt cũng làm cho sinh viên sử dụng sai dạng bị động trong
tiếng Anh. Phổ biến nhất là hiện tượng sinh viên sử dụng cấu trúc ở thể bị động
với nội động từ thay vì dạng thức đúng là thể chủ động. Đa số sinh viên thấy có
“Bị” hay “Được” trong tiếng Việt thì chuyển ngay sang hình thức bị động trong
tiếng Anh mà không cân nhắc xem động từ tương đương trong tiếng Anh là nội động
từ hay ngoại động từ.
-
Trật tự từ trong câu: Có thể thấy từ những bài viết của
sinh viên, ảnh hưởng của trật tự từ trong cấu trúc tiếng Việt cũng được thể hiện
nhiều nhất trong trật tự của tính từ và trạng từ. Trong cấu trúc tiếng Việt, hầu
hết tính từ đứng sau danh từ mà nó bổ nghĩa, trong khi cấu trúc tiếng Anh thì
ngược lại. Điều này dẫn đến việc sinh viên thường mắc lỗi khi dịch từ tiếng Việt
sang tiếng Anh. Ngoài ra, khi diễn đạt sự sở hữu, thay vì sử dụng các tính từ sở
hữu hoặc dạng sở hữu cách, sinh viên thường có xu hướng dịch từ tiếng Việt
sang. Ngoài ra, trong tiếng Anh, trạng từ được phân làm nhiều loại và mỗi loại
có một vị trí khác nhau trong câu, do đó, gây không ít khó khăn cho người học.
- Động từ nguyên thể và danh động từ: Sự
thiếu sót của các động từ liên kết như:
-
“I want go shopping with my friend at weedkend” (Tôi muốn đi mua sắm với bạn
tôi vào cuối tuần.) hay “My parents allowed me
go camping this morning” (Bố mẹ cho tôi đi cắm trại sáng nay) cho thấy sinh
viên luôn đặt câu mà không sử dụng các động từ liên kết do sự ảnh hưởng của trật
tự từ trong tiếng Việt.
- Dấu
câu: Sinh viên thường sử dụng dấu phẩy (,) thay cho dấu
chấm (.) giữa hai câu. Đặc biệt là khi viết câu ghép tiếng Anh, sinh viên thường
quên hoặc mắc lỗi khi sử dụng dấu câu với FANBOYS (For, And, Nor, But, Or, Yet,
So). Ngoài ra, trong thể loại viết thư, sinh viên thường mắc lỗi khi sử dụng
nhiều dấu chấm than (!), đặc biệt sau từ Dear…, do ảnh hưởng khi viết thư trong
tiếng Việt. Ví dụ: Dear John!
3.1.3.
Khía cạnh văn bản (discourse level)
-
Viết câu gãy (fragment):
Trong 138 bài viết của sinh viên, có rất nhiều lỗi về Fragment vì các em nhầm
tưởng một mệnh đề phụ (subordinate clause) có thể đứng độc lập như mệnh đề
chính (main clause hay independent clause).
-
Diễn đạt văn phong chưa trang trọng (informal): Trong
các bài viết, một số đã làm cho bài viết của mình trở nên quá nghi thức, trịnh
trọng và câu nệ (formal); trái ngược lại, một số lại không để xem ý ai sẽ là
người đọc bài luận của mình nên dùng những từ thiếu tính trang trọng
(non-formal). Ngoài ra, với thể loại viết thư, do sự khác biệt về mặt
hình thức cũng như một số cấu trúc trang trọng trong một bức thư của tiếng Anh
và tiếng Việt, nên đa số sinh viên mắc lỗi về hình thức trình bày khi xưng hô
hay khi kết của một bức thư.
-
Diễn đạt ý: Đa phần sinh viên năm thứ nhất thường không
có đủ lượng từ vựng và cấu trúc ngôn ngữ để biểu đạt ý tưởng và quan điểm trong
khi viết. Do vậy họ thường phải thay những từ và cấu trúc câu mà họ không biết
bằng những gì mà họ đã học. Chính điều này đã dẫn tới lối ‘viết vòng vo’ để diễn
đạt ý tưởng. Chính việc dịch từng từ tiếng Việt sang tiếng Anh đã làm cho câu
văn rườm rà, khó hiểu và đôi khi gây buồn cười.
-
Liên kết văn bản: Đa số sinh viên mắc lỗi do ảnh
hưởng tư duy của tiếng Việt, đặc biệt với một số cấu trúc” Although…., but…..”
hay “Because….., so…..”. Ngoài ra, trong các bài viết, lỗi bỏ liên từ “and” cũng
xảy ra khá nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do các em vẫn dịch từ tiếng Việt sang
tiếng Anh và phớt lờ các quy tắc liên kết trong câu.
Tóm lại, có thể thấy rằng, trong ba khía cạnh của sự ảnh hưởng
của tiếng mẹ đẻ trong đoạn tiếng Anh, thì sự can thiệp cú pháp, trong đó có nhiều
vấn đề về lỗi ngữ pháp dường như là vấn đề mãn tính nhất.
3.2.
Ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ lên những thể loại bài viết khác nhau
Theo kết quả nghiên cứu, có sự khác biệt về tần xuất mắc lỗi
giữa các thể loại đoạn văn. Có thể thấy rằng lỗi về thì là loại lỗi thường gặp
nhất của sinh viên khi viết loại bài trần thuật. Không giống như bài thể loại
trần thuật, thì của động từ không phải là lỗi gặp nhiều nhất trong loại bài
miêu tả, bởi vì ở thể loại này, sinh viên ít mắc lỗi với thì. Tuy nhiên, các loại
lỗi thường gặp nhất ở thể loại này đó là cách lựa chọn từ (19,47%), trật tự từ
(13,65%), Diễn đạt ý (11,3%), và mạo từ (6,61%), khá giống với những lỗi gặp ở
thể loại trần thuật. Ngạc nhiên là, trong loại bài viết này, Số của danh từ chiếm
6,75%, sự hòa hợp giữa chủ ngữ - động từ là 6,18% cũng trở thành một trở ngại
khi viết loại bài miêu tả. Do đó, những lỗi sai về mạo từ, Số của danh từ của từ,
sự hòa hợp giữa chủ ngữ - động từ là những lỗi phổ biến trong những bài viết của
sinh viên.
Có thể dễ dàng nhận ra rằng, thể loại bài viết có ảnh hưởng
đáng kể đến loại lỗi mà sinh viên mắc phải. Trong hai thể loại bài viết: trần
thuật và miêu tả, lỗi về văn phong không học thuật dường như ít hơn, tuy nhiên
trong loại bài viết thư, đây lại là một lỗi mà phần lớn sinh viên mắc phải
(9,37%). Cũng không ngạc nhiên khi lỗi về Số của danh từ của từ vẫn chiếm
16,95%, lựa chọn từ chiếm 12,73%,Diễn đạt ý chiếm 13,16%, sự hòa hợp giữa chủ
ngữ - động từ chiếm 7,51% và Số của danh từ chiếm 6,94% vẫn là 5 lỗi phổ biến
nhất, gần tương đương như hai thể loại trần thuật và miêu tả. Để giải thích một
cách rõ ràng hơn, một sự so sánh từng loại lỗi trong 3 thể loại bài viết được
so sánh trong biểu đồ sau:
Biểu
đồ 1. So sánh các loại lỗi tìm thấy trong 3 thể loại bài viết
Trong
đó:
6
- Trật tự từ
|
11
- Động từ nguyên thể/Danh động từ
|
|
2
- Cách dùng từ
|
7
- Số của danh từ
|
12
- Liên kết văn bản
|
3
- Diễn đạt ý
|
8
- Câu gãy
|
13
- Sự hòa hợp giữa chủ ngữ - động từ
|
4
- Mạo từ
|
9
- Thể của động từ
|
14
- Dấu câu
|
5
- Giới từ
|
10
- Thiếu động từ “be”
|
15
- Văn phong học thuật
|
Nói chung, không chỉ giáo viên dạy kỹ năng viết cần đưa ra
phản hồi cho những bài viết của sinh viên dựa theo lỗi mà sinh viên mắc phải,
mà cũng cần căn cứ vào những loại lỗi đó để đưa ra một bài giảng về ngữ pháp hiệu
quả hơn tương ứng với thể loại bài viết đó. Từ những vấn đề được tìm ra ở trên,
có thể thấy rằng, trong suốt quá trình viết, rất cần thiết phải có sự ôn tập,
nhắc lại cấu trúc, cách tổ chức ý và những điều cần thiết khác về các thể loại
bài viết khác nhau, do đó, những kiến thức về sự khác biệt về ngôn ngữ giữa tiếng
mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ hai là rất cần thiết.
3.3.
Nhận thức của sinh viên về những ảnh hưởng của tiếng Việt
Trong quá trình học ngoại ngữ, mắc lỗi là một điều không thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, liệu người học có biết đến khái niệm “ảnh hưởng của tiếng
mẹ đẻ” trong học ngoại ngữ hay không? Trong đó 46 sinh viên trả lời, đa số sinh
viên 76% chọn câu trả lời B, họ biết rằng khái niệm này nói tới những tác động
tiêu cực của tiếng mẹ đẻ trong việc học ngoại ngữ nhưng họ không biết rõ tác động
như thế nào. Số sinh viên khẳng định họ hiểu và biết rõ những ảnh hưởng của tiếng
mẹ đẻ chỉ chiếm 8% sinh viên tham gia nghiên cứu.
Về tần xuất mắc lỗi do ảnh hưởng của tiếng Việt, kết quả câu
hỏi điều tra số 2 cho thấy, chỉ có 4% sinh viên trả lời chưa bao giờ mắc lỗi
này. Số sinh viên thỉnh thoảng mắc lỗi chiếm đa số (59%), và 37% còn lại cho biết
họ thường xuyên mắc lỗi trong khi viết tiếng Anh do ảnh hưởng của tiếng Việt. Để
lý giải thêm vấn đề này, câu hỏi số 3 tìm hiều lý do sinh viên biết được việc mắc
lỗi của họ là do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. 65% sinh viên khẳng định rằng chính
giáo viên dạy tiếng Anh chỉ rõ cho họ biết điều này. 3% sinh viên biết điều này
nhờ bạn cùng học. Họ cho biết thêm rằng, trong quá trình chưa lỗi chéo giữa các
sinh viên trong lớp hay khi các em biết đó là lỗi nhưng chưa hiểu được tại sao
lại sai trong khi không dám hỏi các thầy cô thì các bạn cùng lớp cũng có thể
cho họ lời giải đáp. Số còn lại, 32% sinh viên chọn đáp án C, đó lại họ tự xem
lại những lỗi sai của mình, so sánh với tiếng Việt và nhận ra. Theo quan sát của
nhóm nghiên cứu, những sinh viên tự tìm và phát hiện ra lỗi sai của mình thường
là các em có năng lực tiếng Anh tương đối tốt và ý thức học cao. Xét về phạm vi
ảnh hưởng của tiếng Việt tới việc học viết tiếng Anh, đa số sinh viên thấy mình
bị ảnh hưởng nhiều nhất tới cách diễn đạt và ngữ pháp. Số sinh viên cho rằng
mình bị ảnh hưởng bởi ngữ pháp tiếng Việt chiếm 51%, cách diễn đạt chiếm 34%,
12% sinh viên nghĩ rằng họ bị ảnh hưởng nhiều nhất ở mặt từ vựng và chỉ có 3%
sinh viên chọn ảnh hưởng về chính tả.
Biểu
đồ 2. Những khía cạnh sinh viên thấy bị ảnh hưởng của tiếng Việt
Câu hỏi số 5 trong phiếu điều tra nhằm tìm hiểu nhận thức của
sinh viên về những nguyên nhân khiến họ chịu ảnh hưởng của tiếng Việt trong quá
trình học viết tiếng Anh. Biểu đồ sau đây sẽ mô phỏng kết quả thu được:
Biểu
đồ 3. Ý kiến của sinh viên về nguyên nhân khiến họ bị ảnh hưởng của tiếng Việt
Trong
đó:
1
– Có nhiều điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ
2
– Vốn tiếng Anh của sinh viên còn ít
3
– Tiếng Việt được sử dụng nhiều trong giờ tiếng Anh
|
4
– Thói quen nghĩ bằng tiếng Việt rồi dịch sang tiếng Anh
5
– Thiếu môi trường tiếng
6
– Số giờ học tiếng Anh còn ít
|
Như vậy có thể thấy rõ trên biểu đồ, ba
nguyên nhân chủ đạo nhất khiến sinh viên bị ảnh hưởng của tiếng Việt khi học viết
tiếng Anh đó là: Vốn tiếng Anh của họ còn yếu (52% sinh viên khẳng định nguyên
nhân này), do họ thường nghĩ bằng tiếng Việt rồi dịch sang tiếng Anh (51%), và
do có nhiều điểm khác biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt trong khi tiếng Việt đã
ăn sâu vào tiềm thức của họ (42%). Các nguyên nhân khác tuy chiếm tỉ lệ ít hơn
những cũng rất đáng lưu tâm. 34% sinh viên nghĩ rằng họ mắc lỗi ảnh hưởng của
tiếng Việt do tiếng Việt vẫn được sử dụng nhiều trong các giờ học tiếng Anh. Số
sinh viên lý giải việc mắc lỗi của mình do chưa có môi trường học tiếng Anh thuần
túy chiếm 30%. Ngoài ra, 21% sinh viên chỉ ra một nguyên nhân nữa khiến họ bị ảnh
hưởng của tiếng mẹ đẻ đó là số giờ học tiếng Anh mỗi tuần của họ còn ít. Có một
số ít sinh viên trả lời câu hỏi mở nêu ra những nguyên nhân khác dẫn tới việc họ
chịu sự ảnh hưởng của tiếng Việt. Một số nguyên nhân được họ kể ra, bao gồm: yếu
tố tâm lý, ngại tương tác với giáo viên, bạn cùng lớn bằng tiếng Anh do đó hay
diễn đạt sai, hay do họ không tự học, tự tìm tòi kiến thức qua các nguồn tài liệu
khác.
Vậy khi đã biết nguyên nhân mắc lỗi thì sinh viên có những
giải pháp gì để tự giúp mình khắc phục? Câu hỏi số 6 được thiết kế để tìm ra
câu trả lời cho vấn đề này. Có 15% sinh viên tham gia nghiên cứu chọn đáp án D:
tức là họ không biết phải làm gì. Số sinh viên ghi lại lỗi sai và luyện tập
cách dùng đúng chiếm tỉ lệ nhiều nhất 38%. Ngoài ra, 27% sinh viên trả lời sau
khi biết mình mắc lỗi do ảnh hưởng của tiếng Việt, họ thường xem xét lại sự
khác biệt giữa hai ngôn ngữ để nhớ và tránh. Số sinh viên còn lại (20%) có cách
khắc phục lâu dài hơn, cố gắng luyện viết tiếng Anh nhiều hơn.
4.
Kết luận
Tóm lại, các thông tin, số liệu thu thập được qua 138 bài viết
ở 3 thể loại khác nhau (viết thư, miêu tả, trần thuật) và phiếu điều tra dành
cho sinh viên đều được phân tích, tổng hợp và trình bày trong nghiên cứu nhằm
giúp cho người đọc hiểu rõ về những ảnh hưởng của tiếng Việt đối với việc học
viết tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất chuyên Anh - ĐHHV. Kết quả điều tra
cho thấy rõ hiện tượng mắc lỗi sai trong tiếng Anh do ảnh hưởng của tiếng Việt
rất phổ biến, tác động tới đa số sinh viên năm thứ nhất chuyên Anh - ĐHHV.
Trong đó, các lỗi sau ở khía cạnh cú pháp là điển hình và tiêu biểu nhất, thể
hiện nhiều lỗi sai nhất. Ngoài ra, kết
quả cũng chỉ ra rằng, với mỗi một thể loại bài khác nhau, số lỗi sinh viên sẽ mắc
phải sẽ khác nhau. Cả giáo viên dạy tiếng Anh và cả những sinh viên này đều nhận
thức rất rõ về thực trạng này. Họ cũng ý thức rõ về một số nguyên nhân dẫn tới
hiện tượng này. Có 6 nguyên nhân cơ bản theo sự khẳng định của cả giáo viên và
sinh viên. Thứ nhất, vốn tiếng Anh của sinh viên còn yếu; Thứ hai là sinh viên
có thói quen tư duy bằng tiếng Việt rồi dịch sang tiếng Anh; Thứ ba là tiếng
Anh và tiếng Việt có nhiều điểm khác biệt trong khi tiếng Việt đã ăn sâu trong
tiềm thức của sinh viên; Nguyên nhân thứ tư là do tiếng Việt vẫn được sử dụng
nhiều trong giờ học tiếng Anh. Một nguyên nhân nữa là sinh viên học tiếng Anh
trong môi trường Việt Nam chứ không phải ở các nước nói tiếng Anh. Cuối cùng có
thể thấy rằng số giờ học tiếng Anh mỗi tuần của sinh viên còn ít nên cũng tác động
tới hiện tượng này.
*
Những đề xuất sư phạm
Trước thực trạng sinh viên thường hay sử dụng sai tiếng Anh
do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ như vậy, nhóm tác giả với tư cách một giáo viên dạy
viết tiếng Anh xin có một vài để xuất như sau:
-
Nâng cao vốn từ vựng học thuật qua các bài đọc theo chủ đề
-
Cải thiện lỗi diễn đạt ý trong tiếng Anh
-
Giáo viên nên sử dụng nhiều tiếng Anh trong giờ dạy
-
Khuyến khích sinh viên tiếp cận với ngoại ngữ trong tình huống đời thường nhiều
hơn
-
Giáo viên nên lồng ghép so sánh đối chiếu Anh - Việt trong bài giảng
-
Giáo viên thiết kế các dạng bài tập liên quan để giúp sinh viên luyện tập và
tránh lỗi
-
Khuyến khích sinh viên sử dụng các tiện ích của Internet để mở rộng giao tiếp bằng
ngoại ngữ với người nước ngoài
Ngoài ra, một số giải pháp hữu hiệu khác để hạn chế sự ảnh
hưởng của tiếng mẹ đẻ tiêu cực trong văn bản tiếng Anh từ nghiên cứu này bao gồm:
dạy việc sử dụng đúng từ điển song ngữ Anh - Anh để giúp các sinh viên hiểu ý
nghĩa và có sự lựa chọn từ thích hợp với
bối cảnh của chúng cũng như các ví dụ về câu tiếng Anh đúng, có phương pháp tiếp
cận quá trình dạy kỹ năng viết phù hợp bao gồm các tiến trình: pre, while,
và post-writing (giai đoạn trước, trong, và sau viết), và gợi ý cho sinh
viên sử dụng nhiều tiếng Anh cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy sử dụng các
phương tiện trong lớp học viết có thể thay thế để hạn chế tối đa ảnh hưởng của
tiếng mẹ đẻ. Có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng giữa nhận thức và hành động
còn có một khoảng cách rất xa. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và
sinh viên cũng như có sự hợp tác chặt chẽ giữa các giáo viên cùng tham gia giảng
dạy tiếng Anh tại trường để có thể thực hiện được từng bước trong lộ trình khắc
phục hiện trạng này.
Tài
liệu tham khảo
[1] Bennui, P. (2008), A
study of L1 interference in the writing of Thai EFL students, Malaysian
Journal of ELT Research, 4, 72-102.
[2] Bhela, B. (1999), Native
language interference in learning a second language: Exploratory case studies
of native language inference with target language usage, International
Education Journal, 1(1), 22-31.
[3] Hashim, A. (1999), Crosslinguistic
influence in the written English of Malay undergraduate, Journal of Modern
Languages, 12(1), 59-76.
[4] James, C. (2001), Errors
in language learning and use: Exploring error analysis, Beijing: Foreign
Language Teaching and Research Press.
[5] Richards, J. C.&
Schmidt, R. (2002), Dictionary of language teaching and applied linguistics (3rd
ed.), London: Longman.
Nhận xét
Đăng nhận xét