ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN GÂY BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CỦA MỘT SỐ LOẠI THẢO DƯỢC
Đặng Hoàng Lâm Phòng QLKH&QHQT, Trường Đại học Hùng Vương
1. Mở đầu
Do những
tác động tiêu cực của việc sử dụng kháng sinh nhằm phòng bệnh và kích thích
tăng trọng trong chăn nuôi, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đã và đang cấm
sử dụng các sản phẩm này trong chăn nuôi. Vì vậy, lựa chọn các sản phẩm thay thế
nhằm đảm bảo năng suất vật nuôi là vô cùng cần thiết và thu hút được sự quan
tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Thảo dược có tính kháng khuẩn là
một trong nhiều các chế phẩm sinh học thay thế đã được nghiên cứu, lựa chọn và
sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Việc sử dụng thảo dược thay thế kháng sinh
trong chăn nuôi mang lại hiệu quả cao. Các loại kháng sinh thảo dược đã được chứng
minh có khả năng làm giảm các bệnh tiêu chảy ở lợn, tăng khả năng tăng trọng,
tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và đặc biệt là tạo ra các sản phẩm thịt an toàn với
người tiêu dùng, nâng cao giá trị của sản phẩm chăn nuôi. Các sản phẩm thịt “thảo
mộc” được ưa chuộng và đang trở thành xu thế mới trong chăn nuôi, đem lại lợi
ích cho người chăn nuôi và cho sản phẩm thịt đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Xuất
phát từ luận điểm trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu khả năng kháng khuẩn
invitro của dịch chiết cồn một số loại thảo dược phổ biến trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ đối với một số vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy trên lợn.
2. Vật liệu
và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Thảo dược: Cỏ sữa (Euphorbia thymifolia Burm), cỏ xước
(Achyranthes aspera L), rẻ quạt
(Belamcanda
chinensis), rau sam (Portulacea oleracea), hành (Allium fistulosum), tỏi (Allium sativum), gừng (Zingiber offcinale Rosc), riềng (Apinia officinarum Hance), nghệ (Curcuma longa
Lour) ở dạng tươi và bột khô
- Vi khuẩn: E.coli, Sallmonela, Staphylococus từ Phòng thí nghiệm Vi sinh vật
thú y, Khoa Thú y, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thu
mẫu, sơ chế, sấy khô
Thảo dược sau khi được
thu hái, đem chọn lọc lấy những phần tươi không bị thối hỏng, đem cắt nhỏ, rồi
đem sấy khô ở tủ sấy ở nhiệt độ 500C trong 4 ngày. Mẫu khô được nghiền
nhỏ, kích thước hạt 0,5mm.
2.2.2.
Phương pháp thử hoạt tính kháng khuẩn
- Dịch chiết
cồn ethanol 700 của các loại thảo dược được chuẩn bị theo hướng dẫn
của Đỗ Trung Đàm (2006) về phương pháp Chuẩn bị mẫu thử đối với các mẫu thử dược liệu trong Nghiên cứu khả năng kháng
khuẩn invitro của thảo dược (Viện dược liệu, 2006).
- Thử hoạt
tính kháng khuẩn của các loại thảo dược sử dụng kỹ thuật khoanh giấy kháng sinh trên môi trường đặc theo hướng dẫn
của Đỗ Trung Đàm (2006).
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phương pháp so sánh phương sai một
nhân tố (ANOVA One Way) trên phần mềm Minitab 16.
3. Kết quả
và thảo luận
3.1. Khả năng kháng khuẩn của một số loại thảo dược ở dạng
tươi
Kết quả khảo sát khả năng kháng khuẩn của
một số loại thảo dược ở dạng tươi được trình bày ở bảng 1.
Kết quả bảng 1 cho thấy, khả năng kháng
khuẩn của các loại thảo dược khác nhau là khác nhau. Tỏi, rẻ quạt, cỏ sữa và riềng
có sức khá mạnh với cả 3 chủng vi khuẩn thử nhiệm. Rau sam không cho thấy sức
kháng với các vi khuẩn gram (-) (E.coli và
Salmonella). Nghệ tuy đã cho thấy khả
năng kháng với các vi khuẩn thử nhiệm nhưng đường kính vòng vô khuẩn nhỏ nhất
trong các loại thảo dược thử nhiệm.
Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, khả năng kháng khuẩn của cỏ xước tương
đương báo cáo của Kaur và cs (2005) về khả năng kháng khuẩn của chất chiết từ
thân và rễ của cây cỏ xước đối với vi khuẩn E.coli
và Klebsila. Pandey và cs (2014) cũng ghi nhận kết quả đối
với vi khuẩn E.coli và Staphylococus khi thử khả năng kháng khuẩn
của chất chiết từ lá của cây cỏ xước. Đối với cây rau sam, Chowdhary và cs
(2013) tổng hợp các nghiên cứu trước đó về cây rau sam cũng cho biết, cây này
có khả năng kháng mạnh với các vi khuẩn Staphylococus
aureus, Bacillus cereus và Klebsilla pneumonia. Tác giả này cũng cho biết, rau sam có khả năng
ức chế khả năng phát triển của các vi khuẩn gây bệnh và các nhiễm trùng của cơ
thể. Kết quả về kích thước vòng vô khuẩn của cỏ sữa trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn báo cáo của Jayaveera và cs (2010) về khả năng kháng khuẩn của dịch
chiết trong dung môi cồn ethanol của cỏ sữa đối với Staphylococus và E.coli nhưng tương đương với báo cáo của
Tullanithi và cs (2010) đối với chất chiết ethanol của lá cỏ xước với E.coli.
Khả năng kháng khuẩn của tỏi, nghệ trong nghiên cứu này phù
hợp với các công bố trước đó của Chu Mạnh Thắng và cs (2010), Nguyễn Thị Thanh
Loan (2012). Mahmood (2012) cung cho biết
các kết quả tương tự về khả năng kháng khuẩn của dịch chiết của tỏi, gừng và
hành tây có khả năng kháng khác nhau với các vi khuẩn khác nhau. Báo cáo của
Anbu Jeba Sunilson và cs (2009) về khả năng kháng khuẩn của gừng, nghệ và riềng
cũng cho kết quả tương tự nghiên cứu này.
3.2. Khả năng kháng khuẩn của một
số loại thảo dược ở dạng khô
Sấy khô là một biện pháp phổ biến và cơ bản nhất để bảo quản
thảo dược sau thu hoạch bởi vì đây là biện pháp đơn giản nhất cho phép nhanh
chóng bảo vệ được các hoạt chất có trong thảo dược. Sấy khô cũng là biện pháp bảo
quản thảo dược kinh tế nhất do đầu tư thấp, giá thành năng lượng rẻ và có thể sản
xuất số lượng lớn (Muller and Heindl, 2006). Nghiên cứu của tác giả này cũng
cho biết, nhiệt độ thích hợp nhất để sấy khô thảo dược ở 500C bởi chất
lượng thảo dược sẽ suy giảm nếu sấy ở nhiệt độ cao hơn. Sấy khô cũng thuận tiện cho quá trình sử dụng
các sản phẩm thảo dược này trong quá trình sản xuất thức ăn chăn nuôi. Xuất
phát từ những luận điểm trên, chúng tôi lựa chọn phương pháp sấy khô thảo dược
sử dụng trong thí nghiệm theo các bước: thu hái, rửa sạch, cắt ngắn và sấy khô ở
nhiệt độ 50 0C, kết quả được trình bày ở bảng 2.
Kết quả bảng 2
cho thấy, quá trình sấy khô đã làm giảm khả năng kháng khuẩn của hầu hết các loại
thảo dược. Hành, nghệ không cho thấy khả năng kháng với các vi khuẩn thử nhiệm.
Tỏi và gừng mất hoạt tính kháng với vi khuẩn E.coli. Kích thước đường vô khuẩn của các loại thảo dược dạng khô đều
nhỏ hơn so với dịch chiết ở dạng tươi. Cỏ sữa, rẻ quạt và riềng vẫn cho thấy
tính kháng khuẩn tốt hơn so với các loại khác trong thí nghiệm.
Kết quả của các thí nghiệm cho thấy, sức
kháng khuẩn của thảo dược là khác nhau đối với các loại vi khuẩn khác nhau. Điều
này có thể lý giải do những nguyên nhân sau: (1) Do cơ chế về khả năng kháng
khuẩn đối với các loại vi khuẩn khác nhau của các hợp chất tự nhiên là khác
nhau. Dễ thấy ở đây, E.coli và Salmonella là hai vi khuẩn gram (-), Staphylococus là một vi khuẩn gram (+)
nên cấu tạo bề mặt tế bào của chúng khác nhau dẫn tới khả năng mẫn cảm khác
nhau với các dịch chiết thảo dược. (2) Phương pháp sấy khô và nghiền thảo dược
làm mất đi hoạt tính kháng khuẩn của các hợp chất có trong thảo dược.
Nồng độ thành phần hóa học của thảo dược được chế biến bằng các phương pháp khác nhau là khác nhau. Khi thử nhiệm khả năng kháng khuẩn của tỏi sau khi chế biến bằng các phương pháp khác nhau cho thấy, dịch ép tỏi tươi có khả năng kháng mạnh nhất với S.aureus, bột tỏi có sức kháng yếu nhất đặc biệt là với vi khuẩn E.coli. Kết quả được ghi nhận trong quá trình chế biến hành tây, các thành phần hóa học của hành và khả năng kháng khuẩn của hành đã giảm đáng kể sau khi chế biến ở dạng bột hành khô (Chu Mạnh Thắng và cs., 2010).
Sấy khô thảo dược cũng ảnh hưởng tới phổ
kháng khuẩn của chúng. Nguyễn Thị Kim Loan (2012) thử nhiệm hoạt tính kháng khuẩn
của cao chiết từ bột tỏi đã gia nhiệt ở 800C cho thấy, khả năng
kháng khuẩn của tỏi giảm đi từ 2 -3 lần trong khi đó khả năng kháng khuẩn của
nghệ giảm không đáng kể. Như vậy, nhiệt độ đã làm biến tính allicin trong tỏi
(thành phần chủ yếu tạo nên khả năng kháng khuẩn của tỏi) làm giảm hiệu quả
kháng khuẩn của tỏi.
Sasidharan và Menon (2010) thử nhiệm khả năng kháng khuẩn của dịch chiết gừng
từ hai dạng tươi và khô. Kết quả cho thấy, thành phần hóa học của gừng đã bị
thay đổi sau khi làm khô. Các hợp chất oxygenated trong gừng đã giảm từ 29% ở dạng
tươi xuống còn 14% ở dạng khô. Hydrocarbon trong gừng khô cao hơn trong gừng
tươi. Gừng khô có chứa nhiều hợp chất sesquiterpene hydrocarbon hơn là trong
dùng tươi. Gừng tươi chứa nhiều hợp chất oxygenate hơn trong gừng khô. Các báo
cáo trước đó cũng cho thấy các hợp chất monoterpen có khả năng kháng khuẩn tốt
hơn các hợp chất sesquiterpene. Các hợp chất hydrocarbon có khả năng kháng khuẩn
yếu hơn các hợp chất oxygenated. Thử nhiệm khả năng kháng khuẩn của 2 dịch chiết
gừng từ nguyên liệu tươi và khô cho thấy, khả năng kháng khuẩn của dịch chiết gừng
tươi giảm dần từ Aspergillus niger,
Pseudomonas aeruginosa, Bacillus subtilis. Dịch chiết gừng khô có sức kháng
giảm dần với Pseudomonas aeruginosa,
Aspergillus niger, Bacillus subtilis.
Sấy khô ảnh hưởng tới khả năng kháng khuẩn của tinh dầu thảo dược do quá
trình này ảnh hưởng tới thành phần hóa học của thảo dược. Nhiều nghiên cứu cho
thấy, sấy khô làm giảm nồng độ monoterpence trong khi nồng độ sesquiterpenes
không đổi. Sự suy giảm nồng độ monoterpence là do chúng có khối lượng phân tử
nhẹ và dễ bay hơi. Hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu có mối tương quan cao với
thành phầm monoterpences so với các hợp chất hóa học phổ biến khác và các phân
tử oxy hóa kháng hydrocacbon. Vì vậy, tỷ lệ monoterpence/sesquiterpene sẽ quyết
định chất lượng tinh dầu thảo dược. (Bendelaid và cs., 2006).
4. Kết luận
Khả năng kháng khuẩn của các loại thảo
dược khác nhau là khác nhau. Ở dạng tươi, chất chiết của tỏi, rẻ quạt, cỏ sữa
và riềng có tính kháng mạnh nhất với các vi khuẩn thử nghiệm.
Sấy khô,
nghiền nhỏ làm giảm hoạt tính kháng khuẩn của các loại thảo dược. Hành, nghệ mất
hoạt tính kháng khuẩn sau khi sấy khô. Cỏ sữa, rẻ quạt và riềng cho thấy sức
kháng tốt với các vi khuẩn thử nhiệm sau khi sấy khô.
Tài liệu
tham khảo
Tài liệu
tiếng Việt
1.
Đỗ Trung
Đàm (2006), Phương pháp nghiên cứu tác dụng
dược lý của thuốc từ thảo dược. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, tr
231-260.
2.
Nguyễn Thị
Kim Loan (2012), Ảnh hưởng của tỏi, nghệ
lên khả năng kháng bệnh và tăng trưởng của heo 30 -90 ngày tuổi và heo thịt,
Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh.
3. Chu Mạnh Thắng, Lê Thị Hồng Thảo, Đỗ
Viết Minh, Nguyễn Thành Long (2010), Nghiên
cứu ảnh hưởng của các phương pháp chế biến và bảo quản (dịch chiết, bột khô,
dung dịch) đến khả năng kháng khuẩn của tỏi và hành tây, Báo cáo khoa học thường niên Viện Chăn nuôi.
Tài
liệu nước ngoài
4.
Anbu Jeba Sunilson J., Suraj
R., Rejitha G., Anandarajagopal K., Anita Gnana Kumari A.V. and Prowichit P.
(2009). Invitro antimicrobial evaluation of Zingiber
officinale, Curcuma longa and Alpinia
galangal extract as natural food preservatives. American Journal of Food
Technology 4(5): 192-200.
5.
Benbelaid
F., Abdoune M.A., Khadir A., Bendhou M., 2013. Drying effect on yield and
antimicrobial activity of essential oils. International Journal Aromal plants,
vol. 3, No. 1, pp. 93-101.
6.
Chowdhary C.V., Meruva A.,
Naresh K., Elumalai R.K.A., (2013). A review on phytochemical and
pharmacological profile of Portulaca
oleracea Linn (Purslane). IJRAP 4(1), Jan-Feb, pages 34-37.
7.
Jayaveera K.N., Yoganandham
E.K., Yadav G., Kumanan R. (2010). Phytochemical screenings, antibacterial
activity and physic chemical constants of ethanolic extract of Euphobial
thymifolia Linn. International Journal of Pharmacy and Pharmacultical Sciences
Vol 2, Issue 3.
8.
Kaur M., Thakur Y. and Rana
R.C. (2005). Antiomicrobial properties of Achyranthes aspera. Ancient science
of life VolL XXIV (4) April, May, June, pages 168 – 173.
9.
Mahmood Khan Yousufi, 2012. To
Study Antibacterial Activity of Allium Sativum, Zingiber Officinale and Allium
Cepa by Kirby-Bauer Method. IOSR Journal
of Pharmacy and Biological Sciences (IOSR-JPBS) Volume 4, Issue 5 (Nov. –
Dec. 2012), PP 06-08. Online: www.iosrjournals.org
10. Muller
J. and Heindl A., 2006. Drying of medicinal plants. Medicinal and aromatic plants, 237:252.
11. Pandey
G., Rao Ch.V., Gupta S.S., Verman K.K and Singh M. (2014). Antioxidant and
antibacterial activities of leaf extract of Achyranthes aspera Linn (Prickly
chaff flower). European Journal of Medicinal Plants 4(6): 695-708.
Nhận xét
Đăng nhận xét