MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐÁM ĐÔNG
1.
Mở đầu
Có nhiều
cách khác nhau để lý giải, cắt nghĩa văn hóa Việt, bản sắc văn hóa Việt, nhưng
lý giải bằng một cuốn tiểu thuyết thì không phải ai cũng làm được. Nguyễn Xuân
Khánh đã làm được điều xưa nay hiếm đó bằng một cuốn tiểu thuyết sinh động: Mẫu
Thượng Ngàn. Với chiều sâu chiêm nghiệm và bề dày văn hoá, đây có thể sẽ
là lời giải hấp dẫn và thuyết phục với độc giả và giới nghiên cứu về vấn đề nêu
trên.
Đã có
nhiều hướng tiếp cận khác nhau đối với Mẫu Thượng Ngàn cũng như
tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới. Tuy nhiên, trong quá trình khám phá ấy,
người ta đã tập trung đi tìm những cách tân trong đề tài, chủ đề, bút pháp nghệ
thuật, ngôn ngữ, cấu trúc... mà chưa chú ý đúng mức đến vấn đề tâm lí, một yếu
tố quan trọng trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật; không thấy được mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng và hình tượng văn học như một tất yếu được thức
nhận chủ yếu qua ý thức sáng tạo. Chính vì thế, tìm ra một hướng nghiên cứu mới
cho tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới cũng như cho Mẫu Thượng Ngàn
vẫn là việc cần làm.
Lý thuyết
đám đông được Gustave Le Bon sáng tạo từ những năm cuối thế kỉ XIX và được thể
hiện sinh động trong cuốn Tâm lí học đám đông (1895). Với những lí lẽ
táo bạo và sắc sảo, học thuyết của Le Bon đã trở thành cơ sở quan trọng cho Tâm
lí học, nhất là Phân tâm học của S.Freud và G.Jung, trong đó phải kể đến khái
niệm “vô thức tập thể” đã được Freud thừa nhận vai trò của nó trong nghiên cứu
Phân tâm học. Tuy nhiên lý thuyết của Le Bon chưa được giới thiệu rộng rãi ở Việt
Nam, nhất là việc áp dụng nó vào nghiên cứu văn học còn nhiều hạn chế. Mặc dù
đôi chỗ còn cực đoan nhưng tâm lí học đám đông thực sự đã có ảnh hưởng lớn tới
tư tưởng của thời đại Le Bon cũng như tâm lí học hiện đại.
Tiếp cận
Mẫu Thượng Ngàn từ lý thuyết đám đông chính là một cách làm mới về
một đối tượng vốn đã trở nên quen thuộc. Cách tiếp cận này phù hợp với một sáng
tác đặc thù về chủ đề lịch sử, đồng thời là nền tảng khám phá những giá trị văn
hoá sâu sắc tác phẩm.
2. Nội
dung
2.1.
Tâm lí đám đông và nhân vật cộng đồng trong “Mẫu Thượng Ngàn”
Đám đông là kết quả của sự tập hợp, quy tụ ngẫu nhiên của
các cá thể mang những đặc trưng tâm lí, tính cách và thể chất khác nhau của các
nhóm xã hội hướng đến một mục đích nhất thời nào đó. Việc phát hiện ra vai trò
của đám đông trước hết là các nhà chính trị, nhưng chỉ ra tâm lí đám đông lại
là kết quả hoạt động khoa học của nhà tâm lí học người Pháp Gustave Le Bon.
Theo tác giả, khi một đám đông tâm lí được hình thành, nó liền có những tính
cách chung tạm thời, nhưng có thể xác định được. Những tính cách chung này lại
được cộng thêm tính cách riêng khả biến, tuỳ theo những thành tố mà đám đông
bao gồm và có thể làm biến thái cấu tạo tinh thần của đám đông. Trong những
tính cách tâm lí của đám đông, có những tính cách mà đám đông có thể có chung với
những cá nhân riêng lẻ, mặt khác chúng còn có những tính cách rất riêng biệt,
chỉ có ở tập thể. Le Bon cắt nghĩa sự khác nhau đó bằng ba nguyên nhân sau:
Thứ nhất, cá nhân trong đám đông đã có
được, chỉ nhờ số lượng đông, một ý thức về sức mạnh vô địch cho phép nó nương
theo những bản năng, mà nếu chỉ một mình, cá nhân tất nhiên sẽ kìm nén. Cá nhân
càng có xu hướng ít kìm nén chúng, nếu đám đông là vô danh, do đó là vô trách
nhiệm; ý thức về trách nhiệm, điều luôn ngăn giữ những cá nhân đã biến mất hoàn
toàn. Như thế có nghĩa là, con người trong đám đông đã nằm trong những điều kiện
cho phép anh ta loại bỏ mọi đè nén các dục vọng vô thức của mình.
Thứ hai, sự lây nhiễm, cũng can thiệp để
xác định sự biểu hiện những tính cách đặc thù của đám đông, đồng thời xác định
cả định hướng của chúng. Trong một đám đông, mọi tình cảm, mọi hành động rất dễ
bị lây nhiễm và lây nhiễm đến mức, cá nhân dễ dàng hy sinh quyền lợi riêng cho
quyền lợi của tập thể.
Nguyên nhân thứ ba và là
nguyên nhân quan trọng nhất, xác định những tính cách đặc biệt khi cá nhân ở
trong đám đông. Ở đây, đám đông có tính dễ bị gợi ý của cá nhân trong đám đông
mà tính lây nhiễm nói trên thực ra chỉ là hệ quả của nó. “Dưới ảnh hưởng của một
gợi ý, cá nhân này sẽ lao vào thực hiện một vài hành vi nào đó với sự mãnh liệt
không thể cưỡng nổi. Sự cuồng nhiệt ấy trong đám đông còn mãnh liệt hơn so với
một chủ thể bị thôi miên, bởi vì sự gợi ý như nhau đối với mọi cá nhân sẽ được
phóng đại lên khi trở thành tương hỗ”(Le Bon, 2009).
Về đặc trưng của tâm lí đám đông, trước hết Le Bon chỉ rõ
tính vô thức của đám đông: Hành động vô thức của những đám đông thay thế cho
hành động có ý thức của các cá nhân. Khi hình thành đám đông, một đặc điểm dễ
nhận thấy là sự thay đổi trong tính cách riêng của mỗi cá nhân để hành động
theo tính cách chung của đám đông. Khẳng định tính vô thức như một thuộc tính của
đám đông cũng cần thấy rõ, chính cái vô thức ấy sẽ là một trong những bí ẩn của
sức mạnh đám đông. Thứ hai, tính bốc đồng và dễ bị kích động của đám
đông. Ở phương diện này, Le Bon chỉ ra sự tương đồng giữa đời sống tinh thần của
người tiền sử và trẻ em. Những xung động khác nhau mà đám đông phải tuân theo,
tuỳ theo các kích thích, độ lượng hay tàn ác, anh hùng hay nhát gan những xung
động ấy luôn luôn bức thiết đến nỗi quyền lợi của cá nhân, quyền lợi bảo toàn bản
thân không thống trị con người nữa. Sự dao động của đám đông làm cho nó rất khó
điều khiển, nhất là khi một bộ phận quyền lực công rơi vào tay nó.
Nói đến đám đông ở đây không phải là tất cả những mức độ
hình thành đám đông, mà chỉ quan tâm trước hết những đám đông trong thời kì
chúng đã trở thành tổ chức hoàn bị. Nghĩa là chúng ta xem xét chúng có thể trở
thành cái gì chứ không phải chúng luôn luôn đã là cái gì. Chỉ trong giai đoạn
đang phát triển này, tình cảm và tư tưởng tập thể quay về cùng một hướng. Khi
đó đám đông được tồn tại trong một quy luật nhất định về mặt tinh thần. Le Bon
gọi đó là Quy luật tâm lí về sự thống nhất tinh thần của đám đông.
Điểm
thành công nổi bật của Mẫu Thượng Ngàn không phải là việc
xây dựng những nhân vật, tính cách điển hình mà ngược lại, Nguyễn Xuân Khánh
như vị thủ lĩnh tụ hội những con người, những tính cách để làm nên một nét khái
quát của nhóm/đám đông nhân vật. Các nhân vật này, dù có tính cách riêng nhưng
đều được đặt trong cái không khí chung của cộng đồng. Có thể thấy, tất cả nhân
vật nam trong làng Cổ Đình hầu như đều chịu sự ảnh hưởng và chi phối, thậm chí ảnh
hưởng như một sự lệ thuộc ngẫu nhiên vào các nhân vật nữ - những con người đã
hình tượng hoá thành biểu tượng Mẫu. Hay nói cách khác, các nhân vật nữ đã trở
thành hình tượng trung tâm của cả làng Cổ Đình. Người ta sống, làm việc, yêu
nhau và cả hãm hại nhau đều xuất phát từ cái thần thái và quyền năng đặc biệt của
nhân vật nữ, mà nổi bật ở đó là vẻ đẹp phồn thực của họ. Tín ngưỡng phồn thực
phải chăng đã ăn sâu một cách vô thức để trở thành một nét đặc trưng tâm lí
trong tâm hồn người dân Cổ Đình, thậm chí sánh xạ sang cả những người Tây
phương xa lạ khiến cho họ không khỏi băn khoăn, ngỡ ngàng.
Xây dựng nhân vật cộng đồng trong Mẫu Thượng Ngàn,
Nguyễn Xuân Khánh nhận thấy những hằng số văn hóa của người dân làng Cổ Đình
mang trong mình nó đặc trưng tâm lí của đám đông. Đó chính là sự cố kết cộng đồng,
cái làm nên sức mạnh nội lực của làng Việt tự bao đời nay. Từ bối cảnh chật hẹp
của làng Cổ Đình và những mối liên hệ liên làng, ông đã nhìn thấy sự đồng thuận
vững chãi cần được khai phóng, kể cả những mù quáng và thiển cận cần được dẫn lối
chỉ đường. Ở đây, Nguyễn Xuân Khánh thể hiện mình vừa với tư cách là một nhà
văn, vừa với tư cách là một nhà tư tưởng.
2.2.
Tâm lí đám đông và trải nghiệm cộng đồng trong “Mẫu Thượng Ngàn”
Trở lại với Lí thuyết đám đông, Le Bon đã nghiên
cứu và chỉ ra tình cảm và trải nghiệm
đám đông được biểu hiện qua những phương diện sau:
Thứ nhất, thói bốc đồng, tính hay thay đổi và tính dễ bị kích động ở đám
đông. Những hành vi của đám đông chịu ảnh hưởng của sự kích động nhiều hơn là của
lí trí. Ở điểm này đám đông gần giống với người nguyên thuỷ. Những hành vi thực
thi có thể hoàn hảo về mặt thực hiện, nhưng não bộ không điều khiển những hành
vi ấy, cá nhân hành động tùy theo những ngẫu nhiên của các kích thích. Đám đông
là đồ chơi của mọi kích thích bên ngoài và phản ánh những biến đổi không ngừng
của chúng.
Thứ hai, tính dễ bị gợi ý và tính nhẹ dạ của đám đông. Dù ta giả định đám
đông tập trung đến mấy, thì đám đông vẫn ở trạng thái chờ đợi, điều này làm cho
sự gợi ý trở nên dễ dàng. Gợi ý đầu tiên được đưa ra, qua sự lây nhiễm, nó lập
tức được áp đặt vào cho bộ não, và ngay lập tức sự định hướng được thiết lập. Cũng
như tất cả con người được gợi ý, ý tưởng xâm chiếm bộ não có khuynh hướng biến
đổi thành hành động. “Dù đốt cháy một toà lâu đài hay tận tuỵ, đám đông cũng thực
hiện được một cách dễ dàng”(Le Bon, 2009). Tất cả phụ thuộc vào bản chất các tác nhân kích thích chứ
không phụ thuộc vào các quan hệ tồn tại giữa hành động và sự gợi ý. Vậy nên,
đám đông luôn phiêu bạt trên những giới hạn của vô thức, dễ dàng chịu mọi gợi
ý, có mọi sự mãnh liệt về tình cảm riêng của những người không thể cầu viện đến
ảnh hưởng của lí trí, không có tinh thần phê phán, đám đông chỉ có thể thuộc về
tính cả tin quá mức. Đám đông suy nghĩ bằng hình ảnh và hình ảnh được gợi ra, bản
thân lại gợi thêm một loạt hình ảnh mới chẳng có liên hệ lôgic gì với hình ảnh
ban đầu. Đám đông ít phân biệt được chủ quan và khách quan. Nó chấp nhận những
hình ảnh được gợi lên trong tâm trí như là thực, và thường thì hình ảnh ấy chỉ
là họ hàng xa với hình ảnh được quan sát.
Thứ ba, sự phóng đại và giản đơn trong tình cảm của đám đông. Dù một đám
đông biểu hiện tình cảm như thế nào, thì nó cũng có tính cách kép: giản đơn và
phóng đại. Về điểm này, cá nhân trong đám đông gần với người nguyên thuỷ. Không
thể đạt tới những sắc thái, họ nhìn sự vật trong một khối và không nhận thấy những
chuyển tiếp. Trong đám đông sự phóng đại những tình cảm được tăng cường nhờ sự
việc: một tình cảm được biểu lộ lan truyền rất nhanh bằng con đường gợi ý và
lây nhiễm, nên sự tán thưởng rõ ràng dành cho tình cảm ấy làm gia tăng đáng kể
sức mạnh của nó.
Thứ tư, lòng bất khoan dung, tính chuyên chế và bảo thủ của đám đông.
Đám đông chỉ biết đến những tình cảm giản đơn và cực
đoan; những ý kiến, tư tưởng và niềm tin đã gợi ý cho đám đông đều được chấp nhận
hoặc bị vứt bỏ tất thảy, rồi được xem như những chân lý tuyệt đối hay những sai
lầm cũng tuyệt đối. Cá nhân có thể chịu đựng được mâu thuẫn và tranh cãi, còn
đám đông thì không bao giờ chịu đựng được điều đó. Tính chuyên chế và bất khoan
dung là tiêu biểu cho tất cả các loại đám đông, nhưng chúng ở nhiều mức độ khác
nhau, và ở đây lại xuất hiện khái niệm cơ bản về chủng tộc, kẻ thống trị mọi
tình cảm và mọi tư tưởng của con người.
Đám đông tưởng tượng bằng hình ảnh và những suy
luận của đám đông bao giờ cũng dựa trên các liên tưởng. Nhưng những tư tưởng được
đám đông liên kết, giữa chúng chỉ có mối liên hệ bề ngoài do giống nhau hoặc kế
tiếp nhau. Liên tưởng những sự vật không giống nhau, giữa chúng chỉ có mối quan
hệ bề ngoài, và khái quát hoá tức thời những trường hợp đặc biệt, đó là đặc điểm
suy luận làm nên nét đặc thù trong cách trải nghiệm của đám đông.
Mẫu Thượng Ngàn là tiểu
thuyết lịch sử và đương nhiên tác giả phải phản ánh các vấn đề lịch sử trong
đó. Tuy nhiên, đọc tác phẩm và nhận thấy cái cách dẫn dắt lịch sử rất riêng của
nhà văn. Không phải là sự ghi chép, tái hiện hay đơn thuần là hư cấu để thành
tiểu thuyết. Nguyễn Xuân Khánh đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lịch sử và
huyền thoại, nhưng bản thân huyền thoại cũng lại không còn là nguyên bản, làm
cho tác phẩm mang màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại. Đây chính là một nét rất đặc
thù của tâm lí đám đông đã ảnh hưởng một cách vô thức trong tác phẩm.
Trong
Mẫu Thượng Ngàn, ta bắt gặp huyền thoại Ông Đùng bà Đàhttp://nguvan.hnue.edu.vn/?comp=content&id=23&SU-XAM-NHAP-VA-TAI-TINH-CUA-MOT-SO-MO-THUC-TU-SU-DAN-GIAN-TRONG-VAN-XUOI-VIET-NAM-TU-1986-DEN-NAY.html
- _ftn2. Tuy nhiên, huyền thoại này không được
đưa vào tiểu thuyết ở hình trạng vẹn nguyên của nó, mà bị cắt rời thành nhiều mảnh
và được xâu chuỗi lại theo một tuyến tính mới dọc theo tác phẩm. Các lớp huyền
thoại (huyền thoại về hai vị thần khổng lồ sáng tạo nên vũ trụ, huyền thoại về
cuộc hôn nhân của hai anh em ruột sống sót sau trận đại hồng thủy, huyền thoại
Nữ Oa - Tứ Tượng…) được tích hợp trong truyện kể về ông Đùng bà Đà theo những
kiểu thức và logic mới, tạo cho câu chuyện có một dáng dấp vừa quen thuộc vừa
khác lạhttp://nguvan.hnue.edu.vn/?comp=content&id=23&SU-XAM-NHAP-VA-TAI-TINH-CUA-MOT-SO-MO-THUC-TU-SU-DAN-GIAN-TRONG-VAN-XUOI-VIET-NAM-TU-1986-DEN-NAY.html
- _ftn3. Tuy vậy, điều đáng nói ở đây, huyền thoại
Ông Đùng bà Đà vẫn có thể được xâu chuỗi lại thành một tự sự nguyên vẹn
nằm trong lòng tiểu thuyết (một cách đầy chủ ý). Cái không khí hư ảo, huyền hoặc
song lại thấm đẫm ý nghĩa phồn thực bao bọc lấy cuộc đời và số phận các nhân vật
thời cận, hiện đại. Ranh giới về mặt thời đại dường như đã bị xóa nhòa. Có thể
nói với trải nghiệm cộng đồng, trong Mẫu Thượng Ngàn, truyện
cổ dân gian đã tái sinh trong tự sự hiện đại theo đúng nghĩa của nóhttp://nguvan.hnue.edu.vn/?comp=content&id=23&SU-XAM-NHAP-VA-TAI-TINH-CUA-MOT-SO-MO-THUC-TU-SU-DAN-GIAN-TRONG-VAN-XUOI-VIET-NAM-TU-1986-DEN-NAY.html
- _ftn4.
2.3. Tâm lí đám đông và tín ngưỡng dân gian trong “Mẫu Thượng
Ngàn”
Tín ngưỡng là một sản phẩm
văn hoá do con người trong quá trình quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản
thân mà hình thành. Đó chính là niềm tin về những điều linh thiêng, những sức mạnh
huyền bí, vĩ đại nhiều khi vượt quá lí trí thông thường của con người.
Vậy đâu là cội nguồn của tín ngưỡng? Theo các nhà nghiên cứu,
ở một số dân tộc nguyên thủy của châu Úc, châu Mỹ và châu Phi, tục Tôtem thay
cho tôn giáo và cung cấp những nguyên tắc về tổ chức xã hội. “Về quy luật thì
đó là một con vật, mỗi cái có thể ăn được, hiền lành hay nguy hiểm, đáng sợ, có
quan hệ đặc biệt với toàn thể chi họ, nhưng hiếm khi là một cái cây hay một lực
lượng tự nhiên”(Freud, 2001). Đây chính là tinh thần giả thuyết của S.Freud, bác sĩ người Áo gốc Do Thái, người đã sáng lập ra Phân
tâm học, học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận
dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực văn học
nghệ thuật. Theo giả thuyết của Freud, tín ngưỡng đã được nhìn nhận
trong những ý niệm về lòng thuần phục và tôn kính với người cha nguyên thủy
(Tôtem). Hình ảnh người cha ở đây được hiểu như một biểu tượng - biểu tượng cho
cái thiêng, cho quyền năng cao thượng và sự chiến thắng hay chế ngự của sức mạnh
tinh thần.
Vấn đề trung tâm mà Mẫu Thượng Ngàn
đặt ra là nỗ lực tìm kiếm và dựng lại một không gian tinh thần mà từ đó, căn cốt
tinh thần của người Việt được định hình. Không gian tinh thần ấy, theo nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh, là không gian văn hóa làng mà hạt nhân quan trọng nhất trong
đó là tín ngưỡng dân gian.
Bối cảnh chủ đạo mà Nguyễn
Xuân Khánh tạo dựng trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn là một
ngôi làng Bắc Bộ ở vào giai đoạn đầu thế kỷ XX. Trong ngôi làng đó, có sự thống
trị của một quan niệm chung, một niềm tin chung, một sức mạnh của thói tục, đến
mức, các cá nhân được sắp đặt sao cho hợp, sao cho khớp với khuôn khổ của cộng
đồng, đến mức, cuộc đời của mỗi một người chính là một phần trải nghiệm của cộng
đồng. Có thể nói, một trong những biểu hiện đầu tiên của tín ngưỡng dân gian
trong Mẫu Thượng Ngàn chính là tục thờ cúng bách thần và
tín ngưỡng vật linh. Qua việc miêu tả tục thờ thần Cây, thần Cẩu, Nguyễn Xuân
Khánh như một nhà văn hoá cần mẫn đi qua làng Cổ Đình và lượm nhặt được những tục
lệ đã ăn sâu vào trong tâm thức cộng đồng để rồi hệ thống hoá một cách sinh động
trong tác phẩm.
Tục thờ cúng bách thần và tín ngưỡng vật linh
trong Mẫu Thượng Ngàn không đơn thuần là sự ghi chép, hay lắp
ghép vụn vặt. Cái hay và cũng là cái tài của Nguyễn Xuân Khánh là ở chỗ, ông đã
để những tín ngưỡng ấy hiển hiện một cách hồn nhiên như một phần không thể thiếu
trong đời sống của người dân làng Cổ. Và đặc biệt, không chỉ là những vật linh
phổ biến mà dân gian thường thờ như cây đa, thần cẩu, trong Mẫu Thượng
Ngàn, nhiều khi những vật dụng bình thường, thậm chí vô hình cũng
trở nên linh thiêng đối với con người Cổ Đình. Tiếng
kèn đưa tiễn trở thành biểu tượng của tình yêu, của sự trọn nghĩa và niềm tri
ân sâu nặng của ông trưởng Kiên với vợ. Cây mít trong vườn trở thành biểu tượng
của sự tiếp nối dòng họ, của sự lưu truyền đối với ông Đồ Tiết…. Đó là cả một cảm
quan tôn giáo mới mang màu sắc tâm linh – Tâm linh hiểu theo nghĩa là những gì
thiêng liêng hiện tồn trong đời sống tinh thần của con người.
Như đã trình bày, đám đông suy nghĩ bằng hình ảnh và, đến một
mức nào đó, hình ảnh trở thành biểu tượng. Nguyễn Xuân Khánh đã ý thức rất rõ
điều này qua việc xây dựng nhiều biểu tượng, trong đó thành công nổi bật nhất
là biểu tượng Mẫu. Đã có tác giả nghiên cứu nguyên lý tính Mẫu trong Mẫu
Thượng Ngàn, nhưng không nhìn nhận nó như một biểu tượng của tâm thức
Việt, nghĩa là chưa xác định nó như một biểu tượng văn hóa. Chúng tôi xác định
Mẫu như một biểu tượng xuyên suốt thiên tiểu thuyết. Có điều biểu tượng này
không tập trung ở một nhân vật cụ thể mà nó được hình thành trên cơ sở cộng hưởng
những giá trị của những nhân vật nữ, đặt trong mối liên hệ với các nhân vật
nam. Nếu như những nhân vật nữ trong tiểu thuyết này đều mang ý nghĩa biểu tượng
cho Mẫu, thì Mẫu trở thành biểu tượng cho sự che trở, bao dung; cho sức sống, sức
tái sinh và thiên năng nuôi dưỡng con người. Đây chính là ý nghĩa sâu sắc của
biểu tượng đã trở thành Đạo - Đạo Mẫu trong văn hoá Việt Nam.
3. Kết
luận
Bên cạnh những sáng tạo về cốt truyện, kết cấu, nhân vật, sự
đông kết kinh nghiệm cộng đồng và phản ánh tâm lí cộng đồng là một nét độc đáo
làm nên thành công của Mẫu Thượng Ngàn. Tâm lí đám đông đã được
nhà văn ứng dụng và thể hiện sinh động trong tác phẩm. Trực tiếp dịch cuốn Tâm
lý học đám đông của G. Le Bon, Nguyễn Xuân Khánh ảnh hưởng bởi những tư tưởng
trong cuốn sách là điều dễ hiểu. Nhưng điều đáng nói là, sự ảnh hưởng ấy không
điều khiển nhà văn, hay nói cách khác, Nguyễn Xuân Khánh sáng tác không phải là
sự minh hoạ cho một lý thuyết. Những vấn đề tâm lí đám đông đã sâu và chỉ có thể
tàng ẩn trong tâm hồn nhà văn cũng như đám đông làng Cổ Đình mới có thể đem lại
cho tác phẩm sức hấp dẫn và sinh động đến vậy. Nếu như vô thức là sức mạnh của
đám đông, thì vô thức cộng đồng là một trong những điểm làm nên sức sống - sức
cố kết của người dân làng Cổ Đình. Ở khía cạnh này, một lần nữa ta thấy sức
sáng tạo mãnh liệt, tinh thần làm việc bền bỉ, nghiêm túc và lòng nhiệt huyết
đáng trọng của nhà văn lão thành Nguyễn Xuân Khánh./
Tài liệu tham khảo
1. Trần
Thị An (2012), Sức ám sảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu thượng
Ngàn, http://vienvanhoc.org.vn/noidung/tintuc/Lists/PheBinhVanHoc/View2.
2. Nguyễn
Văn Ba (2010), Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986-2006, nhìn từ văn hoá tâm
linh, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học sư phạm Hà Nội.
3.
Le Bon. G
(2009), Tâm lý học đám đông (Nguyễn Xuân Khánh dịch), NXB Tri thức,
Hà Nội.
4. Freud.
S (2001), Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo (Lương Văn Kế dịch),
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn
Xuân Khánh (2006), Mẫu Thượng Ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Nhận xét
Đăng nhận xét