Câu hỏi và trả lời bài thi môn Triết học
Câu 1. Hãy phân tích nội
dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập? Vận dụng lý luận
này trong nhận thức và hành động thực tiễn?
Trả lời:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập(hay còn gọi
là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V.I. Lê nin viết
“ Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống
nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,
nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”.
1) Vị trí, vai trò của quy luật
trong phép biện chứng duy vật. Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật
mâu thuẫn) chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển.
Nắm vững được nội dung của quy luật này tạo cơ sở cho việc nhận thức các phạm
trù và quy luật khác của phép biện chứng duy vật; đồng thời giúp hình thành
phương pháp tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng và
giải quyết mâu thuẫn nảy sinh.
2) Nội dung quy luật.
a) Các khái niệm của quy luật.
Mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những yếu tố, những thuộc tính khác nhau có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau cùng tồn tại khách quan trong các sự vật,
hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng và mâu thuẫn biện chứng quy định sự biến
đổi của các mặt đối lập nói riêng và của sự vật, hiện tượng nói chung. Thống
nhất giữa các mặt đối lập là sự không tách rời nhau, cùng tồn tại đồng thời và
mặt đối lập này phải lấy mặt đối lập kia làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Sự
thống nhất giữa các mặt đối lập còn gọi là sựđồng nhất giữa chúng do trong các
mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất giữa các mặt
đối lập, nên trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và hoạt động,
trong những điều kiện nào đó, tạo sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật vừa
là bản thân nó, vừa là một cái khác với chính bản thân nó; trong đồng nhất đã
bao hàm sự khác nhau, đối lập. Các mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau
theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau; người ta gọi đó là đấu tranh giữa các
mặt đối lập và sự đấu tranh đó không tách rời với sự khác nhau, thống nhất,
đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn.
b) Vai trò của mâu thuẫn biện
chứng đối với sự vận động và phát triển. Theo Ph. Ăngghen, nguyên nhân chính và
cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của
mọi sự vật, hiện tượng là sự tác động lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối
lập trong chúng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động. Đó là sự tác
động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
đối lập trong một sự vật, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận
động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau giữa các mặt đối
lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
c) Một số loại mâu thuẫn.
+) Căn cứ vào quan hệ giữa các
mặt đối lập đối với một sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn thành mẫu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên
trong- là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập, là mâu
thuẫn nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng, đóng vai trò quyết định trực
tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn bên
ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác
nhau có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng
phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.
+) Căn cứ vào sự tồn tại và phát
triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn
cơ bản- là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, hiện tượng, quy định sự phát
triển của sự vật, hiện tượng trong tất cả các giai đoạn, từ lúc hình thành cho
đến lúc kết thúc và mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật, hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản chỉ là mâu thuẫn đặc trưng cho một
phương diện nào đó của sự vật, hiện tượng, chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ
bản; là mâu thuẫn chỉ quy định sự vận động, phát triển của một hoặc vài mặt nào
đó của sự vật, hiện tượng.
+) Căn cứ vào vai trò của mâu
thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong một giai
đoạn nhất định,người ta phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn chủ yếu- là mâu thuẫn
nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, hiện tượng;
có tác dụng quy định những mâu thuẫn khác trong cùng một giai đoạn của quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo
điều kiện để giải quyết những mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. Sự phát triển,
chuyển hoá của sự vật, hiện tượng sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đóng vai
trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy,
ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu, thứ yếu chỉ là tương đối, tuỳ theo từng hoàn
cảnh cụ thể; có những mâu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong điều
kiện khác lại là thứ yếu và ngược lại.
+) Căn cứ vào tính chất của các
lợi ích cơ bảnlà đối lập nhau của các giai cấp, ở một giai đoạn nhất định,
người ta phân mâu thuẫn xã hội thành mâu thuẫn đối kháng- là mâu thuẫn giữa
những giai cấp, những tập đoàn người, giữa những xu hướng xã hội có lợi ích cơ
bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp
bóc lột và bị bóc lột; giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Mâu thuẫn
không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những giai cấp, những tập
đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Các mâu
thuẫn đó là cục bộ, tạm thời.
c) Kết luận. Nội dung quy luậtnói
lên rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên
nhân; giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển; sự vận
động, phát triển của các sự vật, hiện tượng là tự thân. Quá trình từ khác nhau,
thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết quả là mâu
thuẫn giữa chúng được giải quyết; xuất hiện sự thống nhất mới cùng với sự hình
thành mâu thuẫn mới trong một sự vật, hiện tượng ở dạng thống nhất thường trải
qua ba giai đoạn chính, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của mình.
+) Giai đoan một (giai đoạn khác
nhau)- khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở
sự khác nhaugiữa các mặt đối lập.
+) Giai đoạn hai (giai đoạn từ
khác nhau chuyển thành mâu thuẫn)- trong quá trình vận động, phát triển của các
mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và bài trừ, phủ định lẫn nhau ở
giai đoạn một; sự khác nhau chuyển thành mâu thuẫn.
+) Giai đoạn ba (giai đoạn giải
quyết mâu thuẫn)- khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, nếu có điều
kiện thì hai mặt đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc triệt tiêu nhau; hoặc cả
hai mặt đó đều bị triệt tiêu; sự vật, hiện tượng chuyển sang chất mới. Mâu
thuẫn được giải quyết với kết quả là hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống
nhất giữa hai mặt mới được hình thành cùng với sự hình thành của mâu thuẫn mới.
Mâu thuẫn này lại được giải quyết làm cho sự vật, hiện tượng mới luôn xuất hiện
thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho sự
vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là quan hệ giữa mâu
thuẫn biện chứng với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, trong đó
mâu thuẫn giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là
động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
+) Sự thống nhất giữa các mặt đối
lập có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, nghĩa là sự thống
nhất đó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật, hiện tượng.
+) Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
+) Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
3) Vận dụng lý luận này trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
a) Quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của sự vật và
tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn bằng con đường đi
sâu nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Muốn phát hiện
ra mâu thuẫn cần phải tìm ra thể thống nhất của những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó trong sự vật, hiện tượng.
b) Quy luật mâu thuẫn giúp chúng
ta khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của
từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mặt mâu
thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối
lập, mối quan hệ tác động qua lại, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
Chỉ có như thế mới hiểu đúng sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động để giải quyết
mâu thuẫn.
c) Quy luật mâu thuẫn giúp nhận
thức được rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải
quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải
quyết khi có đủ điều kiện chín muồi; không nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi
giải quyết mâu thuẫn.
Nhận xét
Đăng nhận xét