100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX và lời bình (phần 4)
31- Sóng Hồng
ĐI HỌP
Rì rầm tiếng suối
reo.
Xuống đèo trời mới tối,
Vằng vặc mảnh trăng treo.
Ngựa mỏi đi bước một,
Người suy nghĩ vấn vương
Nhiều khi ý kiến lớn
Vụt đến lúc đi đường.
Đêm lạnh, cành sương đượm
Long lanh bóng nguyệt vờn.
Nhà ai bếp vẫn đỏ,
Thấp thoáng ở sườn non?
Đường xa, cơn gió rít,
Xao xác chim cầm canh,
Hội nghị mai họp sớm
Băm băm ngựa bước nhanh.
Việt Bắc
Mùa đông 1953
Lời bình
Bài thơ
làm tại Việt Bắc mùa đông 1953. Vào đầu năm 1954 chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ sẽ được chuẩn bị. Nhà thơ là Tổng Bí thư Đảng lúc đó tất nhiên có nhiều
việc lớn và khẩn trương phải suy nghĩ.
Đây là một bài thơ rất đỗi giản dị nhưng
thuộc loại xinh xắn, hay nhất của Sóng Hồng ( Trường Chinh ).
Bài thơ bố cục theo nhịp đi lúc nhanh,
lúc chậm của vó ngựa. Phong cảnh hai bên đường và tâm trạng nhà thơ diễn biến
hết sức hoà hợp với tốc độ của ngựa lúc vượt đèo lúc xuống núi.
Hình ảnh người cán bộ cao cấp của Đảng
dạt dào một tâm hồn thi sĩ hiện lên trong bài thơ thật đẹp, thật ấn tượng.
32- Minh Huệ
ĐÊM NAY BÁC KHÔNG NGỦ
Lòng anh cứ bề bộn
Vì Bác cứ
thức hoài.
Chiến dịch
hãy còn dài
Rừng lắm dốc lắm ụ
Đêm nay bác không ngủ
Lấy sức đâu mà đi.
Lời bình
“ Đêm nay Bác không ngủ ” là bài thơ nổi bật nhất trong cuộc đời sáng
tác của Minh Huệ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca những
năm kháng chiến chống Pháp.
Lúc bấy giờ, mới ngoài hai
mươi tuổi, Minh Huệ là một cán bộ tuyên truyền, cán bộ Đoàn thanh niên cứu quốc
đang tham gia các công tác trên chiến trường Liên khu IV ( cũ ) và chưa một lần
tác giả được gặp Bác. Tình cờ, anh được gặp một người bạn bộ đội đã từng tham
gia chiến đấu ở mặt trận Biên giới trở về. Người bạn kể lại cho anh nghe những
mầu chuyện về Bác cùng đi chiến dịch, cùng sống với các chiến sĩ trong lán
rừng… Chính từ những câu chuyện ấy đã khơi nguồn cảm hứng cho bài thơ ra đời.
Nhà thơ Minh Huệ đã kể về quá trình hình thành nên tác phẩm:
“ Hơn một trăm ngày vật vã
một cách hào hứng trong cấu tạo hình tượng Đêm nay Bác không ngủ tôi cảm
thấy như không phải mình làm thơ mà là mình đang tâm sự với Bác, mình đang lớn
lên một ít trong tình thương của Bác, một tình thương đã được đào luyện đến mức
tự nhiên như bản tính người mẹ, như hương thơm tạo vật, như nắng ấm mùa xuân,
như một quy luật nhân ái Hồ Chí Minh ” .
( Báo Văn
nghệ số 1107, ngày 19-1-1985 ).
Bài thơ đã thể hiện tình cảm
sâu sắc của Lãnh tụ đối với chiến sĩ đồng bào và tình cảm của người chiến sĩ,
của nhân dân ta đối với Bác Hồ kính yêu.
Viết “ Đêm nay Bác không
ngủ ”, Minh Huệ cũng đã thả hồn thơ của mình bay theo âm hưởng dân ca, đặc
biệt là dân ca Nghệ Tĩnh vốn thấm vào máu thịt tác giả từ bé. Vì thế nhà thơ
chọn thể thơ năm chữ mang màu sắc dân gian rất tự nhiên, thích hợp với mạch cảm
xúc có tính tiết của một cốt truyện.
33- Quang Huy
TIẾNG ĐÀN BA - LA- LAI -
CA TRÊN SÔNG ĐÀ
Tặng các đồng chí chuyên
gia Liên Xô
Những xe ủi, xe ben sóng
vai nhau nằm nghỉ
Chỉ còn tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp
loáng sông Đà
Ngày mai chiếc đập lớn nối
liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao
nguyên
Như đêm nay
Rung một khoảng sông Đà…
1980
Lời bình
“ Tiếng đàn Ba - la- lai -
ca trên sông Đà ” sáng tác năm 1980, là bài thơ hay của Quang Huy viết về
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và tình cảm quốc tế vô sản giữa
hai nước Việt - Nga.
Bài thơ giàu âm thanh nhạc
điệu. Tôi thích những câu thơ:
34- Chính Hữu
ĐỒNG CHÍ
Quê hương anh nước
mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên
sỏi đá
Anh với tôi, đôi người xa
lạ,
Tự phương trời chẳng hẹn
quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên
đầu
Đêm rét chung chăn, thành
đôi tri kỉ.
Đồng chí !
Ruộng nương anh gửi bạn
thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió
lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính
Anh với tôi biết từng cơn
ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt
mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay.
Đêm nay rừng hoang sương
muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc
tới
Đầu súng trăng treo.
1948
Lời bình
Chính Hữu sáng tác bài
thơ “ Đồng chí ” năm 1948. Bài
thơ ca ngợi tình đồng chí gắn bó giữa những người lính xuất thân là nông dân
lao động.
Thơ Chính Hữu cô đúc, chặt
chẽ và tứ thơ thường nổi lên sau một vài nét phác họa sắc sảo. Bài thơ này cũng
thế.
Bài thơ như chia thành ba
khổ. Mỗi khổ thơ chốt lại một tứ chủ yếu. Tất cả tạo thành ý chung xuyên suốt
toàn bài rất chặt chẽ: “ Đồng chí - Thương nhau tay nắm lấy bàn tay - Đầu
súng trăng treo ”.
Đoạn cuối của bài thơ chỉ có
ba dòng:
Đêm nay
rừng hoang sương muối
Đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng
trăng treo.
Phát hiện ra chất thơ bay bổng trong một hoàn cảnh gian khổ,
khốc liệt, đó là một trong những phương diện thể hiện tài năng thơ ca của Chính
Hữu. Câu thơ kết của bài “ Đồng chí ” đã nâng hình ảnh cụ thể, hiện thực
của người lính gác đêm giữa nơi “ rừng hoang biên giới ” lên thành một
biểu tượng đẹp, thi vị của người lính canh gác đất trời Tổ quốc. “ Đầu súng
trăng treo ” là một hình ảnh độc đáo, đầy chất thơ và có ý nghĩa khái quát
cao. Vì vậy Chính Hữu đã lấy câu thơ này đặt tên cho cả tập thơ của mình.
Một số bài thơ khác của Chính
Hữu có thể xếp là những bài thơ hay của thế kỷ XX: Đường ra mặt trận, Ngọn
đèn đứng gác…
35- Hoàng
Hữu
HAI NỬA VẦNG TRĂNG
Một nửa vầng trăng
thôi, một nửa
trăng vẫn đấy mà em xa quá
nơi cuối trời em có ngắm
trăng lên.
Nắng tắt đã lâu rồi, trăng
thức dậy dịu êm
trăng đầu tháng có lần em
ví
Chữ D hoa như vầng trăng xẻ
nửa
Tên anh như nửa vầng trăng
mờ tỏ
ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên
trời.
Ơi vầng trăng theo con nước
đầy vơi
trăng say đắm dào trên cỏ
ướt
trăng đầu tháng như đời anh
chẳng thể nào khác được
trăng cuối tháng như đời
anh hao khuyết
em đã khóc
trăng từng giọt tan vào anh
mặn chát
em đã khóc
nhưng làm sao tới được
bến bờ anh tim dội sóng
không cùng.
Đến bây giờ trăng vẫn cứ
còn xanh
cứ một nửa như đời anh, một
nửa
Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng
sẽ…
Trăng viên mãn cuối trời
đêm đêm em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở
đời nhau.
Lời bình
Hoàng Hữu là một họa sĩ có
tài đồng thời có những bài thơ hay như “ Hai nửa vầng trăng ” - đạt giải
B cuộc thi thơ của báo Văn nghệ 1981-1982.
Bài thơ chân thực, sâu lắng
và tinh tế:
Nắng tắt
đã lâu rồi, trăng thức dậy dịu êm
trăng đầu
tháng có lần em ví
Chữ D hoa
như vầng trăng xẻ nửa
Tên anh
như nửa vầng trăng mờ tỏ
ai bỏ quên
lặng lẽ sáng bên trời.
( Tác giả nói đến chữ D hoa
vì tên thật của anh là Nguyễn Hữu Dũng ).
Trong bài không ít những câu
thơ lấp lánh tài hoa:
Ơi vầng
trăng theo con nước đầy vơi
trăng say
đắm dào trên cỏ ướt
trăng đầu
tháng như đời anh chẳng thể nào khác được
trăng cuối
tháng như đời anh hao khuyết
em đã khóc
trăng từng
giọt tan vào anh mặn chát
em đã khóc
nhưng làm
sao tới được
bến bờ anh
tim dội sóng không cùng.
Hoàng Hữu sống nghị lực, dịu
hiền, tình nghĩa. Cuộc đời anh tuy ngắn ngủi ( Anh mất năm 1981 khi mới 36 tuổi
) nhưng một số tác phẩm xuất sắc của anh (tranh và thơ nói chung ), bài
thơ “ Hai nửa vầng trăng ” nói
riêng vẫn còn trường tồn mãi với thời gian.
36- Tố Hữu
VIỆT BẮC
Lời bình:
Tháng 7- 1954, hiệp định Giơnevơ được
ký kết, hoà bình lập lại ở Đông dương, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng.
Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Bài
thơ viết vào tháng 10 - 1954 ( tháng quân đội ta vào tiếp quản Hà Nội ), nói
lên niềm thương nỗi nhớ, mối ân tình sâu nặng thiết tha đối với Việt Bắc của
người cán bộ, chiến sĩ khi từ giã Việt Bắc, cũng là tình cảm mọi người Việt Nam
đối với chiến khu Việt Bắc, quê hương cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, đồng
thời, là tấm lòng nhân dân đối với Bác Hồ, với Đảng.
Bài thơ viết theo thể lục bát, mượn
hình thức đối đáp của đôi trai gái khi chia tay nhau trong ca dao. Bài thơ dài
150 câu này có hai phần lớn:
Phần trên, 90 câu, là phần chính của
bài thơ. Bao trùm là nỗi NHỚ Việt
Bắc, nhớ bồn chồn, da diết “ nhớ gì như nhớ người yêu ”. Qua nỗi nhớ tha thiết
ấy, thiên nhiên, con người và cuộc sống ở Việt Bắc hiện lên xiết bao thân
thương, trìu mến. Nỗi nhớ niềm thương cứ tuôn chảy, dâng trào theo dòng hồi
tưởng. Nhớ gì, nhớ sao, nhớ từng, nhớ những, nhớ khi, nhớ từ …, những từ
ấy lặp đi lặp lại xoáy sâu da diết. Nhớ thương tha thiết vì tình sâu nghĩa
nặng, vì sắt son chung thuỷ. Là tình cảm nhưng cũng chính là đạo lí, đạo lí
truyền thống của dân tộc và cũng là đạo lý cách mạng.
Núi nhớ rừng Việt Bắc nên thơ, tình nghĩa
đậm đà ấy cũng là núi rừng cùng con người chiến đấu kiên cường bất khuất (Rừng
cây núi đá ta cùng đánh Tây… ). Đoạn thơ 12 câu từ “ Những đường Việt Bắc của ta “ … trở xuống,
dạt dào hơi thở anh hùng ca, vừa có những chi tiết chân thật vừa bay bổng, hào
hùng. Đoạn viết về: “ Trung ương chính phủ luận bàn việc công ” trong
hang núi cũng rất đặc sắc: giản dị, trang nghiêm mà lung linh, ngời sáng.
Phần thứ hai, 60 câu còn lại, khẳng định
mạnh mẽ sự gắn bó sắt son, thuỷ chung giữa người đi kẻ ở, cách mặt xa lòng;
cũng là sự gắn bó miền xuôi với miền ngược, nhân dân với Đảng, với Bác Hồ; đồng
thời phác ra viễn cảnh sáng tươi của đất nước xây dựng ngày mai.
Đoạn 8 câu thơ viết về Bác Hồ là một
trong những đoạn hay nhất của bài thơ. Chỉ mấy nét đơn sơ, tự nhiên nhưng là
những nét “ thần bút “ mà nói như Xuân Diệu, đây là “ một bức danh hoạ, Bác
hiện lên giản dị, bình thường ( áo nâu túi vải ) và rất mực ung dung, linh
hoạt. Hình ảnh Bác Hồ hoà hợp tuyệt vời với thiên nhiên song vẫn nổi bật lên “
là trung tâm, là ánh sáng, là linh hồn của bức tranh ” ( Hoài Thanh ); suối,
đèo, rừng núi sống động và trở nên có hồn khi Bác xuất hiện. Người đi rừng
núi trông theo bóng Người, câu thơ thật bâng khuâng, thể hiện nỗi lưu luyến
không dứt của đồng bào Việt Bắc đối với Bác.
Việt Bắc là một trong những bài thơ hay
nhất, tiêu biểu nhất của thơ ca Tố Hữu. Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của bài thơ
là tính chất dân tộc đậm đà. Bài thơ vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo hình
thức ca dao trữ tình, dùng cả cách diễn đạt rất xưa để diễn đạt một nội dung
mới mẻ mà thật thấm thía. Hình tượng thơ chọn lọc, chân thật mà gợi cảm khôn
cùng. Lời thơ, nhạc thơ trong sáng, điêu luyện, hàng trăm câu thơ lục bát liền
mạch nhưng không đơn điệu, khi sâu lắng bùi ngùi, khi tưng bừng rộn rã, khi
sảng khoái, hào hùng. Các biện pháp tu từ trong bài ( điệp ngữ, ẩn dụ, nhân
hoá, tượng trưng ) được sử dụng rộng rãi, tự nhiên mà rất “ đắt ” đầy sáng tạo.
Việt Bắc thuộc những bài thơ đạt tới cái trong sáng cổ điển mới của thơ sau
cách mạng.
Cùng với “ Việt Bắc ”, thơ Tố Hữu còn có
những bài thơ khác có thể xếp trong những bài thơ hay thế kỷ XX như: Tiếng hát
sông Hương, Bà má Hậu Giang, Quê mẹ, Em ơi … Ba Lan …, Bài ca mùa xuân 1961, Mẹ
Tơm, Mẹ Suốt, Bác ơi ! …
BÁC
ƠI !
Đời tuôn nước mắt, trời
không mưa…
Chiều nay con chạy về thăm
Bác
Ướt lạnh vườn rau mấy gốc
dừa!
Con lại lần theo lối sỏi
quen
Đến bên thang gác, đứng
nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn
reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt
ánh đèn !
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh
trời
Miền Nam đang thắng, mơ
ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác
cười!
Trái bưởi kia vàng ngọt với
ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa
nhài !
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng
bay…
Ôi, phải chi lòng được
thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi
thương đời
Bác ơi, tim Bác mênh mông
thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp
người.
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ
đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm
châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…
Bác sống như trời đất của
ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành
hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ
nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong
cha
Bác nghe từng bước trên
tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng tiếng
súng xa.
Bác vui như ánh buổi bình
minh
Vui mỗi mầm non, trái chín
cành
Vui tiếng chim ca hoà bốn
biển
Nâng niu tất cả chỉ quên
mình.
Bác để tình thương cho
chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng
vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn
trượng
Hơn tượng đồng phơi những
lối mòn
*
Ôi Bác Hồ ơi, những xế
chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao
nhiêu
Ra đi, Bác dặn: “ Còn non
nước... ”
Nghĩa nặng, lòng không dám
khóc nhiều.
Bác đã lên đường theo tổ
tiên
Mác - Lê-nin, thế giới
Người hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông
núi
Dắt chúng con cùng nhau
tiến lên!
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng
hơn
Xin nguyện cùng Người vươn
tới mãi
Vững như muôn ngọn dải
Trường Sơn.
6-9-1969
Lời bình:
Ngày 2 tháng 9 năm 1969 Bác Hồ kính yêu từ
trần. Tang lễ Bác là một sự kiện lớn lao của đời sống dân tộc. Ngày 6-9-1969,
nhà thơ Tố Hữu viết xong bài thơ để khóc Bác. Thời gian này có hàng trăm bài
thơ của các nhà thơ trong nước và thế giới viết về Bác, trong đó “ Bác ơi !
”của Tố Hữu là một trong những bài thơ hay nhất, giàu cảm xúc nhất.
Trong
một hoàn cảnh đầy xúc động, trong tâm trạng thổn thức nghẹn ngào, nhà thơ bày
tỏ tấm lòng thương tiếc lớn, sâu xa đối với Bác Hồ, một trái tim vĩ đại đã ngừng
đập, một nhân cách tuyệt vời không còn nữa. Đó cũng là tình cảm chung của đông
đảo quần chúng nhân dân.
Trong
từng câu viết về Bác Hồ đều giản dị, hàm súc, không khoa trương, rất phù hợp
với cuộc đời, phong cách sống của Bác.
Nhà thơ có ý thức đưa ra những khái quát thật cao, thật sâu
về bản chất con người Bác: Bác là hiện thân của cái lớn lao, cao cả, cái tự
nhiên của đất trời ( “ Bác sống như trời đất của ta ”, “ Ôm non sông mọi kiếp
người ”… ), Bác là kết tinh tâm hồn dân tộc, lấy nét thương đời làm chủ đạo ( “
Nỗi đau dân nước nỗi năm châu ”, “ Lo muôn mối ” , “ Yêu từng ngọn lúa mỗi
nhành hoa ” … )
Hai khổ thơ cuối cùng, giọng
thơ có bình tĩnh hơn, tác giả khẳng định sự bất tử của Bác Hồ và tin tưởng ở đà
“ vươn tới mãi ” của dân tộc trên con đường cách mạng Bác đã mở ra.
Bài thơ “ Bác ơi !
” của Tố Hữu sáng tác trong không khí những ngày tang lễ như một tiếng khóc
tiễn biệt, như một “ điếu văn bi hùng ” bằng thơ. “Bác ơi! ” đã được nhà
thơ Tố Hữu chọn là bài thơ yêu thích nhất của mình.
37- Nông Thị Ngọc Hoà
LỜI CỦA LÁ
Ta như một chiếc lá xanh
Nhỏ
nhoi giữa nhánh, giữa cành của cây
Đung đưa ngọn gió hao gầy
Chập chừng lay… chập chừng
lay… chập chừng…
Khôn ngoan vay trả người
dưng
Dở hơi sòng phẳng nợ nần bà
con
Đất vuông ganh tỵ trời tròn
Mà nghe đây đó vẫn còn bể
dâu
Chỉ nhìn một khúc sông sâu
Làm sao biết được ở đâu cội
nguồn
Mơ màng những chuyện thiệt
hơn
Nổi
nênh tăm cá, chập chờn chim bay
Rủi thì ở giữa lòng tay
Biết đâu vớt được chút may
của rừng.
Lời bình:
Nông Thị Ngọc Hoà là nữ thi sĩ có tên tuổi trên văn
đàn với một số bài thơ hay, độc đáo để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng
bạn đọc.
Là người con dân tộc Tày, quê ở Yên Thịnh, Chợ Đồn,
Bắc Cạn nhưng chị nhiều năm gắn bó với mảnh đất trung du Phú Thọ, với Trường dự
bị Đại học dân tộc TW. Từ năm 1998 đến năm 2004, chị đã cho ra đời 5 tập thơ,
được một số giải thưởng về thơ và có thơ in chung trong nhiều tuyển tập thơ của
Trung ương.
“Lời của lá” là một bài
thơ hay, thể hiện được phong cách riêng của thơ Nông Thị Ngọc Hoà
Bài
thơ được viết theo thể thơ lục bát, gồm 3 khổ, 14 câu thơ. Với ngôn từ giản dị
và hình ảnh “chiếc lá xanh” thân thuộc của núi rừng, 4 câu thơ đầu đã thể hiện
sự khiêm nhường và những tình cảm sâu lắng của tác giả với quê hương, với cuộc
đời:
Ta như một chiếc
lá xanh
Nhỏ nhoi giữa
nhánh, giữa cành của cây
Đung đưa ngọn gió
hao gầy
Chập chừng lay…chập
chừng lay…chập chừng…
Những từ tượng hình “nhỏ nhoi”, “hao
gầy” thật gợi tả và điệp ngữ “chập chừng lay” đã tăng thêm cảm xúc, nỗi niềm và
sức gợi của câu thơ.
Nếu
như 4 câu thơ đầu là những câu thơ giàu cảm xúc trữ tình thì 6 câu thơ giữa là
những triết luận về cuộc đời, những băn khoăn trăn trở về nhân tình thế thái:
Khôn ngoan vay trả người
dưng
Dở hơi sòng phẳng
nợ nần bà con
Đất vuông ganh tỵ
trời tròn
Mà nghe đây đó vẫn
còn bể dâu
Những câu thơ đậm chất triết lý, trí
tuệ. Nếu có một chút băn khoăn thì đó là sự gieo vần “ dưng - nần” có
phần khập khiễng trong thơ lục bát.
Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai
cũng là hai câu triết luận nhưng không khô cứng mà giàu cảm xúc đối với cội
nguồn – quê hương:
Chỉ nhìn một
khúc sông sâu
Làm sao biết được ở
đâu cội nguồn.
Bốn câu thơ cuối có vẻ ngu ngơ, mộng
mị, chông chênh nhưng lại rất thật đã làm nên cái hay, cái độc đáo của bài thơ:
Mơ màng những
chuyện thiệt hơn
Nổi nênh tăm cá,
chập chờn chim bay
Rủi thì ở giữa lòng tay
Biết đâu vớt được chút
may của rừng.
Bài thơ kết thúc gợi bao điều về cuộc
đời, danh phận, về thiệt - hơn, về rủi -may, khổ đau - hạnh phúc… Nhân vật trữ
tình vững vàng vượt qua mọi chìm nổi, rủi ro của cuộc đời nhờ có điểm tựa, niềm
hy vọng ở rừng núi - quê hương.
Với ngôn từ dung dị và sâu lắng, giàu
tâm trạng với quê hương, với những triết luận về cuộc đời, những trăn trở về
nhân tình thế thái… “Lời của lá” là bài thơ hay đã “gửi gắm được
những nỗi niềm, tâm trạng với quê hương từ trong sâu thẳm tâm hồn” của nhà thơ
Nông Thị Ngọc Hoà, đúng như lời tâm sự của chị:
“
Tôi chỉ viết những gì lòng mình muốn; mong có thể phản ánh được chân thực cuộc
sống, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào tôi – Như chiếc lá rừng, đã góp thêm vào
giai điệu của đại ngàn, để mai sau khi lìa cành biết mình không vô nghĩa”
Tên
của bài thơ này được lấy làm tên một tập thơ của Nông Thị Ngọc Hoà: “Lời của
lá” – NXB Văn hoá Dân tộc, 2000, giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.
38- Hoàng Thị Minh Khanh
NHỚ
Tiễn chân anh đi xa
em không buồn nhưng cũng
nhớ
mỗi cánh chim bay qua cửa
sổ
em ước mình được vỗ cánh
bay theo…
Anh đã đi trăm suối vạn đèo
bằng đôi chân chai rạn
bằng đôi chân đã cùng anh
ra trận
góp phần giải phóng quê ta.
Chín năm dài kháng chiến
Việt Bắc anh qua - Mường La
anh đến
ăn quả sim rừng - uống nước
trăm khe
đời có gian lao nhưng lòng
vẫn tràn trề
mang niềm vui câu hát.
Đâu có giặc là đoàn quân
tiến bước
lội suối băng ngàn vượt
thác nề chi
chín năm trời anh đã mang
đi
cả tình em - xóm nhỏ.
Cho đến hôm nay trời ta
giăng lửa đỏ
đất ta dựng chiến hào
ta đi vào trận đánh Mỹ gian
lao
xích lại gần hai miền chia
cắt.
Trái tim ta đau nỗi đau mất
nước
anh ơi anh - khi Tổ quốc
yêu cầu
Ta sẵn sàng lại gửi nhớ
thương nhau
Theo bước hành quân kháng
chiến.
Phút chia tay - em nhìn anh
xao xuyến
dù không nói được một lời
em vẫn thấy mình kiêu hãnh
vì tình ta lắm lắm anh ơi !
Ôi - đôi mắt xanh đằm thắm
Ôi - vầng trán rộng cao cao
Ôi - mái tóc từng gội mưa
dãi nắng
theo gió bay bay trên khắp
nẻo chiến hào.
Dù anh đi đâu đến đâu
dù ta xa nhau biết mấy
em vẫn tin anh như từng tin
Đảng vậy
trong gian lao anh có mặt
hàng đầu.
Em nhớ anh không chỉ trong
giấc ngủ
em nhớ anh không chỉ lúc
dạo chơi
Em nhớ anh không chỉ đêm
trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc
mưa rơi.
Mà em đã nhớ anh
cả những lúc soi gương chải
tóc
cả những lúc công tác bộn
bề
cả những lúc nghe đàn em
trẻ học
hay tiếng chim trời ríu rít
bay đi …
Ôi cái nhớ sao mà kỳ diệu
Ôi cái thương sao khéo mặn
mà
có phải lúc xa nhau mới
hiểu
hết lòng người trong những
phút giây qua.
Hà Nội 1965
Lời bình:
Bài thơ chân thực, sâu lắng. Đoạn kết của bài mang tính khái quát và
triết lý:
“ Ôi cái
nhớ sao mà kỳ diệu
Ôi cái thương
sao khéo mặn mà
có phải
lúc xa nhau mới hiểu
hết lòng
người trong những phút giây qua “.
39- Trần Đăng Khoa
HẠT GẠO LÀNG TA
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay.
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Hạt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút lên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông…
Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cào rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất…
Hạt gạo làng ta
Gửi ta tiền tuyến
Gửi về phương xa…
Em vui em hát
Hạt gạo làng ta.
Lời bình:
Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại: “ Tôi viết
bài thơ Hạt gạo làng ta vào năm 1969. Khi đó tôi 11 tuổi, đang học lớp 5
trường làng. Bài thơ ra đời đã lâu, lại viết trong những năm chiến tranh khốc
liệt. Bây giờ đọc lại nó trong hoà bình, ở một thời điểm khác, một bầu không
khí khác, liệu nó có còn đủ sức làm rung động trái tim độc giả hôm nay hay
không ? ’’
Xin thưa, đến hôm nay và mai sau, bài thơ
vẫn đủ sức làm rung động trái tim độc giả, bài thơ vẫn trường tồn mãi với thời
gian .
Những câu thơ mở đầu thật trong sáng,
tình cảm, sâu sắc:
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay.
Người biên tập đã sửa lại thành “ Ngọt
bùi hôm nay ”. Ngọt bùi đắng cay hay hơn, sâu sắc, ý nghĩa hơn Ngọt
bùi hôm nay vì “ Ở mỗi hạt gạo có bao mồ hôi, nắng mưa, sương gió, bão
giông, bom đạn và cả nỗi đắng cay nữa ”. Ta lại nhớ đến câu ca dao cổ sâu sắc:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay
muôn phần ”.
Theo tôi, đoạn thơ hay nhất, xúc động
nhất trong bài là đoạn :
“ Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Hạt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy… ”
Những
vất vả, nhọc nhằn của người mẹ được hiện lên sinh động qua những câu thơ giản
dị, xúc động, ấm áp nghĩa tình .
Một
số bài thơ khác của Trần Đăng Khoa cũng là những bài thơ hay của thế kỷ XX: Mưa,
Mẹ ốm, Sao không về Vàng ơi !, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn …
40- Yến Lan
BẾN
MY LĂNG
Bến My Lăng nằm không,
thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng
buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên
mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn
râu.
Ông không muốn run người ra
tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến
trăng sao
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời
tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu
những vì sao.
Trôi quanh thuyền, những lá
vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ
rải trăng trăng.
Chiều ngun ngút dài trôi về
nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My
Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng
kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc
lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như
hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối
chưa đi
Ông lão vẫn say trăng, đầu
gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến
My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như
oán trách.
Gọi đò thôi run rẩy cả
ngành trăng
Bến My Lăng còn lạnh, bến
My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt
bao trăng.
Lời bình:
Nhận định về thơ Yến Lan trước Cách mạng
tháng Tám, nhà phê bình văn học Hoài Thanh - Hoài Chân viết: “ Xem thơ Yến Lan,
tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng thấy hay hay, nhưng dần lâu
cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông, và
nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định. Ngoài ra chịu
không biết sau màn mây mù ấy có gì không
”.
( Thi nhân Việt Nam - NXB Văn học, Hà Nội - 1988, tr 155 )
“ Bến My Lăng ” thì khác, bài thơ
có “ cái không khí là lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích ”.
Nhận xét
Đăng nhận xét